Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh A Di đà Tam Da Tam Phật Tát Lâu Phật đàn Quá độ Nhân đạo

PHẬT THUYẾT KINH A DI ĐÀ

TAM DA TAM PHẬT TÁT LÂU PHẬT

ĐÀN QUÁ ĐỘ NHÂN ĐẠO

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Chi Khiêm, Đời Ngô
 

PHẦN BỐN
 

Đức Phật dạy: Thế nào là năm ác?

Thế nào là năm thống khổ?

Thế nào là năm lửa thiêu?

Những gì làm cho tiêu trừ năm ác, để được năm thiện?

Những gì là giữ năm thiện để được phước đức, sống lâu, vượt khỏi thế gian và đắc đạo Niết Bàn?

Đức Phật dạy: Nghiệp ác thứ nhất: Từ Chư Thiên, loài người, cho đến loài cầm thú thuộc loài côn trùng nhỏ nhít mà muốn làm những việc ác, kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, dần dần đến xung khắc, oán thù, tàn sát, tổn hại, ăn nuốt lẫn nhau, không biết làm thiện, ác nghịch vô đạo, tự nhiên bị tai ương hình phạt, đương nhiên phải chịu thần minh ghi chép. Phạm thì không mất và đưa đến quả báo, thế nên có người nghèo khổ, hạ tiện, đói khát, tù đày, cô độc.

Có người mù, điếc, ngọng, câm, ngu si tăm tối. Có kẻ mạnh mẽ mà kẻ yếu đuối không sánh kịp. Thế nên có kẻ quyền quý, giàu sang, phú quý, tài cao, trí tuệ dõng mãnh, sáng suốt, thông đạt. Tất cả đều nhờ đời trước làm thiện, từ hiếu, bố thí ân đức.

Có kẻ bị quan đòi hay bị Vương Pháp lao ngục vì không sợ, không cẩn thận, phạm pháp, làm điều ác nên bị tội nặng, dẫn đến hình phạt kịch liệt, mong mỏi được thoát khỏi nhưng khó mà thoát ra được.

Hiện tại đời nay, những sự kiện này hiện ra trước mắt, đến lúc qua đời bị rơi vào nơi tăm tối rồi thọ thân trở lại, ví như Vương Pháp gia hình khổ sở cùng cực.

Có kẻ tự nhiên ở nơi địa ngục, cầm thú, ngạ quỷ, loài côn trùng nhỏ nhiệm, dần dần thay hình đổi dạng, đổi xấu thành tốt, tuổi thọ ngắn hay dài, tinh thức thần hồn tự nhiên gá vào thai mẹ thọ thân.

Phải một mình hướng đến con đường sanh tử, xoay vần theo nghiệp báo với những tai ương tội ác và hình phạt không ngừng, trôi lăn trong những chốn ấy không bao giờ xa lìa được, đời đời kiếp kiếp không hẹn ngày ra.

Được giải thoát thật là khó thay! Khổ đau làm sao nói hết. Giữa Trời Đất này tự nhiên là như vậy, tuy chưa đúng lúc mà thình lình bị chết. Hãy nhận lấy đạo tự nhiên như vậy và đều phải trở về theo thiện với ác. Đây là đại ác thứ nhất, là thống khổ thứ nhất, là thiêu đốt thứ nhất. Lao nhọc, khổ sở như vậy.

Than ôi, buồn thay! Cũng như lửa dữ nổi lên thiêu đốt thân người, người nào có thể ở trong cõi ấy nhất tâm định ý, đoan thân chánh hạnh, tự mình làm điều thiện, không làm điều ác. nhờ phước đức ấy, con người được độ thoát, được sống lâu, vượt trên cuộc đời, đắc đạo Niết Bàn. Đây là đại thiện thứ nhất.

Đức Phật dạy: Điều ác thứ hai: Ở thế gian, Vua Chúa, quan lại, nhân dân, cha con, anh em, gia đình, chồng vợ đối với nhau xem thường, chẳng có đạo nghĩa gì.

Họ không theo con đường chân chánh mà làm theo nhiều sự dâm dục và kiêu mạn. Họ muốn tự do, tâm ý tha hồ khoái lạc nên lừa dối nhau, nhất là không sợ chết. Tâm và khẩu khác nhau cho nên nói và nghĩ không thật.

Họ dùng những lời hoa mỹ, dối trá, quanh co không chân thật. Làm việc không ngay thẳng trật tự, ganh ghét nhau, dẫn đến nói những lời quanh co, gièm pha, hung ác, hãm hại người khác vào chỗ oan uổng.

Vua chúa là bậc bề trên mà tâm không sáng suốt, không có tầm nhìn thấu đáo, lại giao phó cho bề tôi, bề tôi tiếp tục giẫm chân theo đó thực hành, chỉ biết làm theo hình thức ở cương vị bất chánh, điều hành công việc sai lầm, làm tổn hại bậc trung lương hiền thiện, không xứng hợp ý Trời, thật vô cùng trái với đạo lý.

Bề tôi lừa dối vua, con lừa dối cha, em dối gạt anh, vợ dối gạt chồng, trong ngoài gia đình bạn bè cùng tranh tụng nhau. Ai nấy đều ôm nhiều lòng tham độc sân hận, ngu si mê muội, sát sanh trộm cắp, không có tôn ti thượng hạ, không nam không nữ, không lớn không nhỏ, trong lòng chỉ muốn về mình thật nhiều, làm cho người khác phải tan nhà mất mạng mà không ngó nghĩ đến trưóc sau, phá hoại luôn cả gia tộc, nhà cửa, thân thuộc.

Có khi nội ngoại trong gia tộc hay bạn bè thân hữu nơi xóm giềng, phố thị, dân dã nghèo nàn, vì công việc mà cùng lợi hại nhau, tranh tài, tranh hơn, cãi vã, sân hận, trở thành cừu địch tranh nhau thắng bại. Vì tham giàu luôn nung nấu trong tâm nên chẳng chịu bố thí cho ai.

Cầu khẩn, luyến ái, bo bo tham tiếc, nên mắc phải suy tư nghĩ ngợi khổ thân phiền tâm. Thế nên cuối cùng không nơi nương cậy, đi một mình, đến một mình, không ai theo cùng.

Thiện ác, phước đức, tai họa, trách phạt... như bóng theo hình đến chỗ thọ sanh. Hoặc là đến chốn an vui, hoặc là vào nơi khốn khổ.

Lúc ấy mới thấy hối hận, làm sao kịp nữa?!

Người đời nay ngu si thiếu trí tuệ, thấy người làm thiện không biết quý mến học hỏi, mà lại sân hận phỉ báng. Chỉ thích làm việc ác, làm việc không hợp đạo, chỉ muốn vơ vào mình thật nhiều và thường ôm lòng độc ác.

Muốn người khác cung cấp vật dụng cho mình, của cải tiêu tan khánh tận, lại tiếp tục tìm cầu, tâm tà bất chánh, thường một mình sợ hãi người có hình thức.

Hiện tại không lo tính toán, khi nghiệp đến mới hối hận. Đời này phải ở chốn lao ngục lâu dài, tự nhiên rơi vào chỗ chịu nhiều tai ương, lầm lỗi nơi thế gian bần cùng, cô độc, đói khát.

Mắc tội như vậy là do đời trước không tin đạo đức, không chịu làm thiện. Đời nay làm ác nên Thiên Thần ghi rõ, đến khi chết sanh vào đường ác.

Có người tự nhiên ở chốn địa ngục, cầm thú, ngạ quỷ, côn trùng hay loài côn trùng nhỏ nhít. Trôi lăn trong chốn ấy đời đời kiếp kiếp không có ngày ra, khó được thoát khỏi, đau đớn không nói hết được. Đây là đại ác thứ hai, là thống khổ thứ hai, là thiêu đốt thứ hai, khổ sở nhọc nhằn như vậy.

Cũng như lửa lớn bốc cháy kịch liệt, thiêu đốt mạng người, người nào có thể ở trong cõi ấy nhất tâm định ý, đoan thân chánh hạnh, chỉ làm những việc thiện, không làm các việc ác, nhờ phước đức này mà thân được thoát khỏi chốn xấu xa, được nhiều tuổi thọ và vượt khỏi thế gian, ở trên Trời, đắc đạo Niết Bàn tịch tĩnh. Đây là đại thiện thứ hai.

Đức Phật dạy: Điều ác thứ ba: Những người ở thế gian cùng dựa vào nhân mà sanh, cùng nương tựa ở trong Trời Đất, không biết sống lâu được bao nhiêu tuổi. Có người thì giàu sang phú quý, có người hiền thiện sáng suốt, có kẻ ngu si bần cùng, hạ tiện, nhỏ bé, gầy gò.

Trong những người này có kẻ không tốt, chỉ ôm lòng độc ác, thân tâm không ngay thật, thường nghĩ đến dâm dục nên trong người tràn đầy rối rắm. Ái dục chồng chéo làm cho ngồi đứng không an. Lòng tham dục bỏn sẻn muốn được thật nhiều.

Liếc mắt đưa tình với cả sắc đẹp nhỏ nhặt bằng thái độ dâm dật xấu xa. Có vợ mà lại chán ghét, lén lút ra vào, mang tài sản trong nhà tiếp tay nhau làm những việc sai trái.

Họ tập hợp ăn uống rồi cùng nhau làm ác, khởi binh làm giặc, chiếm thành đánh nhau, giết hại cướp bóc, chém chặt, cưỡng đoạt một cách vô đạo.

Lấy của cải tài sản người khác tóm thâu đem về cho mình, không biết làm cho đời sống tốt đẹp. Việc đáng mong cầu lại không chịu mong cầu.

Bị tâm ác hiển lộ nên khống chế hành động, buộc thành thế lực bức hiếp, muốn khủng bố người khác để mang về cung cấp cho gia đình, để sinh sống với nhau. Tâm ý buông thả theo những thú vui, dâm loạn với phụ nữ vợ người khác, không tránh cả với bà con dòng họ.

Già cả, lớn bé, mọi người ai cũng oán ghét. trong và ngoài nhà, ai cũng thù ghét. Cũng chẳng biết sợ pháp luật, làm cho tội trạng bị ghi đầy sổ quan.

Tội ác như vậy tự nhiên rơi vào lao ngục, có thần minh ghi chép, xét soi ngày tháng, biết rõ tội tình, nên có kẻ tự nhiên vào chốn địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, thuộc loài côn trùng nhỏ nhít, xoay vần trong chốn ấy đời đời kiếp kiếp không hẹn ngày ra. Khi được thoát ra thì nỗi khổ đau ấy vẫn không nói hết được. Đây là đại ác thứ ba, thống khổ thứ ba, thiêu đốt thứ ba, khổ sở nhọc nhằn như vậy.

Cũng như lửa lớn bốc cháy, thiêu đốt thân người. Người nào có thể ở trong cõi ấy nhất tâm định ý, đoan thân chánh hạnh, chỉ làm những việc thiện, không làm các việc ác.

Nhờ phước đức này mà thân được thoát khỏi chốn xấu xa, được nhiều tuổi thọ, vượt khỏi thế gian, ở trên Trời, đắc đạo Niết Bàn tịch tĩnh. Đây là đại thiện thứ ba.

Đức Phật dạy: Điều ác thứ tư: Những người không thể làm thiện, họ sẽ cùng bị bại hoại, cùng mách bảo nhau để làm những việc ác. Làm chủ phát ngôn nhưng chỉ muốn bằng những lời nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác, mắng nhiếc, dối gạt để rồi ganh ghét chống đối nhau.

Ghét ganh người tốt nên bị hư hỏng sự hiền thiện, đối với hành động như vậy mà còn lấy làm vui. Lại không hiếu thuận cung cấp dưỡng nuôi cha mẹ, khinh thường thầy tổ, bạn hữu tri thức, không uy tín, khó được thành thật.

Tự cho mình là bậc cao quý, đem quyền hành, thế lực uy hiếp hoành hành, xâm phạm người khác, không tự biết mình.

Làm ác mà vẫn ngoan cố, không biết hổ thẹn lương tâm, chỉ muốn làm cho người khác tôn kính, sợ hãi và vâng theo mệnh lệnh của họ. Không biết kính sợ thánh thần, Trời Đất. Cũng chẳng biết dạy bảo ai làm thiện.

Không dạy dỗ hay giáo hóa được ai mà lại cao ngạo, khinh đời như vậy. Không có tâm lo sợ, ý buông lung không biết sợ sệt là gì. Thiên Thần sẽ ghi chép những tội lỗi và sự kiêu ngạo này. Dựa vào đời trước ít làm việc phước đức, được chút ít thiện nghiệp tiếp giúp mà mong được hỗ trợ nhiều.

Ngày nay làm ác nên những thiện nghiệp ấy tiêu tan. Gặp ác bức bách, một mình trơ trọi đứng giữa hư không, chẳng có nơi nương tựa, còn bị nhiều tai ương lầm lỗi.

Đến lúc qua đời, các ác nghiệp kéo đến vây quanh, tự nhiên bức xúc phải rong ruổi quẩn quanh, không được ngưng nghỉ, tự nhiên các ác nghiệp cùng kéo đến.

Được ghi rõ ở chỗ thần minh, tai họa lỗi lầm kéo lôi phải đến ngay nơi ấy, tự nhiên rơi vào chịu những tai ương trách phạt. Thân tâm tan nát, thể chất lẫn tinh thần khổ cực mà không thể lìa xa. Bị rơi thẳng vào vạc dầu sôi lửa nóng.

Ngay lúc ấy mới biết hối hận, nào có ích gì, và làm sao kịp nữa?

Thiên Đạo cũng chẳng được bước vào, cho nên có kẻ tự nhiên rơi vào địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, côn trùng, quanh quẩn trong những chốn này đời đời kiếp kiếp không có ngày ra, khó được thoát khỏi.

Đau đớn làm sao nói hết! Đây là đại ác thứ tư, là tướng khổ thứ tư, là thiêu đốt thứ tư, khổ đau như vậy. Cũng như lửa lớn bôc cháy thiêu đốt mạng người. Người nào có thể ở trong cõi ấy nhất tâm định ý, đoan thân chánh hạnh, chỉ làm những việc thiện, không làm các việc ác.

Nhờ phước đức này mà thân được thoát khỏi chốn xấu xa, được nhiều tuổi thọ và vượt khỏi thế gian, ở trên Trời, đắc đạo Niết Bàn tịch tịnh. Đây là đại thiện thứ tư.

Đức Phật dạy: Điều ác thứ năm: Người đời thường đi theo sự giải đãi, không chịu làm thiện, chẳng nghĩ đến đời sống an lạc, vợ con đói lạnh, cha mẹ cũng vậy.

Nếu muốn quở trách dạy dỗ con cái thì người con ấy với tâm ác, mắt trợn dọc, sân hận nói lời chống đối, phản nghịch kịch liệt còn hơn kẻ ở nơi hoang dã xa lạ, giống như kẻ thù, ví bằng chẳng có con.

Những sự vay mượn giả dối kết thành vô số hoạn nạn, càng không có tâm báo đền nên bị thiếu nghèo khốn khổ, không thể khôi phục lại.

Thích hùa nhau du hý phóng túng, kết bè đông đảo để được cấp cho mà không sợ ngăn cấm. Ham thích nhậu nhẹt say sưa, ăn uống vô độ, ra vào không chừng mực, tư chất đần độn, xúc phạm chẳng biết tình người, dùng sức mạnh cưỡng bức.

Thấy người vui vẻ lại sanh lòng ganh ghét giận dữ với họ. Sống không có lễ nghĩa sẽ không thể can ngăn cho ai hiểu. Cũng không lo nghĩ đến sự đủ thiếu của cha mẹ, vợ con.

Không nghĩ đến sự đáp đền công đức của cha mẹ, không nghĩ nhớ ân tốt đẹp của Thầy Tổ mà luôn nhớ nghĩ việc ác. Miệng thường nói lời ác, thân thường làm việc ác.

Làm việc suốt ngày mà không có kết quả, không tin đạo đức, không tin có Tiên Thánh Hiền minh. Không tin làm nghiệp thiện là con đường có thể vượt khỏi cuộc đời xấu ác.

Không tin có Phật ở thế gian, muốn giết hại A La Hán, tranh đấu với Tỳ Kheo Tăng. Muốn giết cả cha mẹ, anh em, vợ con, thân thuộc, bạn bè và nhìn họ bằng tâm lý độc ác, ghét bỏ, muốn làm cho họ bị chết mới vừa lòng. Không tin lời Kinh Phật.

Không tin con người sau khi chết sẽ tái sanh. Không tin làm việc thiện được tốt đẹp. Không tin làm ác sẽ bị quả xấu.

Những người nam, người nữ này tâm ý đều ngang ngược, phản nghịch, ngu si, mê muội, vớ vẩn, ham thích dục lạc, thiếu trí tuệ, tự cho đó là trí tuệ lớn và tốt đẹp an vui.

Họ không biết là họ từ đâu sanh ra, sau khi chết sẽ đi về đâu?

Không có lòng từ hiếu thuận mà còn ác nghịch với đất Trời. Trong lúc đó lại mong cầu sự may mắn, muốn được sống lâu, thân mãi tồn tại không chết.

Cuối cùng sẽ quy tụ về con đường sanh tử, thiện ác khổ cực. Thân đã tạo nghiệp tai ương, lỗi lầm ác độc thì nhất định sẽ không được độ thoát.

Cũng không thể giáo hóa khiến cho họ làm thiện. Tâm từ mở bày chỉ dạy cho họ con đường chết là khổ, nẻo thiện ác sẽ rơi vào thì có kẻ lại không tin.

Khổ tâm nhọc lời muốn làm cho người ấy được độ thoát, chỉ vô ích mà thôi, bởi tâm họ bị bế tắc, ý không cởi mở, sống chết gần kề, khi đến rồi đều hối hận, có hối hận cũng đã muộn màng!

Trước không lo làm thiện, đợi đến lúc cùng cực mới lo, nào có ích gì! Năm đường đều rõ ràng giữa đất Trời mênh mông, sâu thẳm, mãi hoài ở trong đó.

Xoay vần tiếp nhận thiện ác, khổ đau mà tự thân phải gánh lấy, không ai thay thế cho được, tự nhiên đi theo con đường đã tạo.

Không nên buông thả, vì nghiệp đuổi theo đến chỗ tái sanh. Người lành làm việc thiện, từ hòa, hiếu hạnh thì từ nơi an lạc trở về với an lạc, từ ánh sánh trở về ánh sáng. Người ác làm việc xấu thì từ nơi khổ đi đến chốn tối tăm.

Ai có thể biết được điều này?

Chỉ có Phật mới thấy biết mà thôi. Rất ít người tin theo lời chỉ dạy, nên sanh tử luân hồi không ngưng nghỉ, đường ác vẫn còn hoài.

Người đời như vậy không thể nói đạo lý được, cho nên có kẻ tự nhiên rơi vào chốn địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, côn trùng, cho đến loài côn trùng nhỏ nhít. Quẩn quanh trong những nơi này đời đời kiếp kiếp không có ngày ra.

Thật khó mà được giải thoát, khổ đau làm sao nói hết! Đây là năm điều ác, năm thống khổ, năm thiêu đốt, khổ đau như vậy. Cũng như lửa lớn bốc cháy thiêu đốt mạng người. Người nào có thể ở trong cõi ấy nhất tâm định ý, đoan thân chánh hạnh, lời nói và hành động tương xứng, thể hiện hết sức chí thành.

Những điều đã nói, đúng như lời nói, tâm và khẩu không thay đổi. Chỉ làm những thiện nghiệp, không làm những điều ác.

Nhờ phước đức này mà thân được thoát khỏi chốn xấu ác, được nhiều tuổi thọ và vượt khỏi thế gian, ở trên Trời, đắc đạo Niết Bàn tịch tĩnh. Đây là năm đại thiện.

Đức Phật bảo Bồ Tát A Dật và đại chúng: Ta đã nói cho các ngươi biết về năm ác khổ đau ở đời này, làm cho năm thống khổ nổi dậy, năm thiêu đốt nổi dậy, lần lượt sanh ra.

Mọi người ở thế gian không chịu làm thiện mà muốn làm các việc ác, dám phạm các việc ác này, tự nhiên đều phải tuần tự đi vào con đường ác.

Người này ở đời hiện tại bị tai ương bệnh tật, không thấy biết sự sanh tử. Khi chết rơi vào chỗ cực khổ vô cùng và nhiều lo sầu tàn khốc.

Tự thiêu đốt nhau, chuyển dần đến hủy diệt. Sau đó, những người này cùng tạo thành oan gia sát hại lẫn nhau. Từ nhỏ nhặt nổi lên đến đại khốn kịch liệt, những quả báo này đều từ tham dâm tài sắc, không chịu nhẫn nhục bố thí mà muốn mình được an vui, không ngay thẳng mà muốn được danh tiếng lẫy lừng.

Vì si mê dục vọng nên tư tưởng bị thúc bách theo tâm, không được như ý nên kết tình trong lồng ngực, không biết nhàm chán, bị tài sắc trói buộc nên không có giải thoát, không có sự giảm bớt mà đầy ắp tranh giành ham muốn.

Thích vinh hoa phú quý, không nhẫn nhục, không biết bố thí làm thiện. Oai thế chẳng được bao nhiêu, bị cháy thiêu theo danh ác, thân bị đọa đày khổ sở kịch liệt, tự nhiên rơi xuống, không thoát ra được.

Phép nước ban ra phải tuân hành, trên dưới tương ứng kỷ cương, liên kết chặt chẽ. Bao nhiêu âu lo dồn dập phải vào trong chốn ấy.

Xưa nay có những thống khổ như vậy thật đáng thương thay. Vì hoàn toàn không nghĩa lý, không biết chánh đạo.

Đức Phật bảo Bồ Tát A Dật và đại chúng: Nếu ở đời có Phật, đều được oai thần ban bố của Phật từ bi thương xót, làm cho các việc ác tiêu trừ, bỏ ác, thành tựu hạnh lành, buông xả sự nghĩ suy, phụng trì Kinh giới và được tiếp nhận hoàn hảo. Thực hành theo Kinh Pháp không dám sai trái. Vượt khỏi thế gian, đắc đạo vô vi, Niết Bàn hạnh phúc an vui.

Đức Phật dạy: Nếu có hàng Chư Thiên, Vua Quan, nhân dân và người đời sau nào được nghe lời Kinh Phật mà suy nghĩ thật chín chắn và đoan tâm chánh hạnh theo trong ý Kinh, chính là tuân theo trên, làm điều thiện để hóa độ và xem xét ở dưới.

Nhiều sự dạy dỗ chuyển thành sắc lệnh, dẫn đến cùng nhau làm thiện, cùng nhau được độ thoát. Ai cũng tự giữ oai nghi, nhân từ, thương xót, suốt đời không lười nhác, biết tôn kính Thánh Hiền, hiếu thuận, thông minh, bác ái, không dám sơ suất lời Phật dạy.

Hãy lo vượt khỏi thế gian, đạt đạo Niết Bàn. Hãy lo đoạn tận sự thống khổ trong đường sanh tử và nhổ sạch gốc rễ xấu ác. Hãy lo đoạn tuyệt sanh vào đường khổ đau độc ác, nơi loài địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, côn trùng nhỏ nhít.  Hãy gặp Phật ở đời và kiên trì Kinh Đạo, không dám đánh mất hay sai trái.

Đức Phật dạy:

Các ngươi hãy tin rằng: Thế nào là việc khẩn cấp thứ nhất?

Hãy giữ thân ngay ngắn.

Hãy giữ tâm ngay thẳng.

Hãy giữ mắt đoan nghiêm.

Hãy giữ tai cẩn thận.

Hãy giữ mũi chính đáng.

Hãy giữ miệng cẩn trọng.

Hãy giữ tay nghiêm chỉnh.

Hãy giữ chân nghiêm chỉnh, mới có thể tự kiểm soát và thúc liễm thân tâm, không nên buông lung theo dục vọng. Thân tâm trong sạch đều tương ưng với thiện. Bó buộc trong ngoài, chớ nên chạy theo sự ham thích dục lạc, không phạm phải những lời nói ác. Khí sắc phải nhu hòa. Thân hành phải chuyên nhất.

Tất cả những hành động: Đi đứng nằm ngồi phải an bình. Muốn làm việc gì trước phải tính toán, suy nghĩ thật chín chắn rồi phác họa, ngắm nghía đồ họa, từ từ ổn định rồi mới làm.

Việc làm mà vội vã hấp tấp không tính toán kỹ lưỡng thì việc làm ấy không chắc chắn, thật uổng mất công phu. Việc đã hỏng, sau đó hối tiếc, tràn đầy đau khổ đến mất thân, sự chí thành trung tín để đạt đạo cũng chẳng còn.

Đức Phật dạy: Các ngươi hãy làm nhiều việc thiện hơn nữa, như: Ban ân bố thí, không phạm đạo cấm kỵ, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, dần dần đem giáo hóa cho mọi người tu thiện, làm phước đức theo Kinh Pháp này.

Tâm từ chuyên nhất, Trai giới thanh tịnh trong một ngày một đêm thì công đức ấy thù thắng hơn những người ở nước Phật A Di Đà làm thiện một trăm năm.

Vì sao?

Vì những người ở nước Phật A Di Đà đều tích đức, tu nhiều thiện nghiệp, vô vi tự nhiên đối với sự mong cầu. Họ không có những việc ác, dù là bằng sợi lông, sợi tóc.

Đức Phật dạy: Đối với những người ở cõi này làm việc thiện trong mười ngày mười đêm thì công đức ấy thù thắng hơn cả nhân dân trong cõi nước phương khác làm thiện cả ngàn năm.

Vì sao?

Vì nhân dân ở cõi nước phương khác đều làm thiện. Người làm thiện thì nhiều mà người làm ác thì ít. Họ có mọi vật dụng tự nhiên, không phải tìm cầu hay làm lụng.

Người ở thế gian làm ác thì nhiều mà làm thiện thì ít, nếu không tìm cầu hay làm lụng thì không có vật dụng. Thế nên người ở thế gian có thể tự đoan thân chánh niệm làm thiện và chí tâm cầu đạo mới được như vậy.

Người ở thế gian không có sự cung cấp tự nhiên mà phải tìm cầu khổ nhọc, nếu muốn có đời sống ổn định. Từ đó sanh ra sự lường gạt, dối trá, tốt xấu.

Được của cải rồi mang về cung cấp cho vợ con, khổ thân nhọc tâm, cuối cùng đưa đến tâm ý luôn bị bất an, chẳng được thong dong nhàn hạ. Người nào có thể tự an tịnh, làm việc thiện, tinh tấn tu đức thì mới có thể được như vậy.

Đức Phật dạy: Ta rất thương xót các ngươi và Chư Thiên, Vua Quan, dân chúng. Ta chỉ dạy cho mọi người làm thiện, không làm ác. Tùy theo khả năng của họ có thể tiếp nhận mà ta đem đạo chỉ dạy, giảng giải, dắt dìu để thực hành theo.

Tức thì vua noi theo sự giáo hóa làm thiện, chỉ dạy lại cho quần thần, cha chỉ dạy cho con, anh chỉ dạy cho em, chồng chỉ dạy cho vợ, bà con thân thuộc, bạn bè trong nhà ngoài cửa cùng chỉ dạy cho nhau tu thiện, hành đạo, tụng Kinh, giữ giới.

Mọi người đều tự nghiêm thân định ý, trên dưới cùng nhắc nhở nhau. Không kể lớn hay nhỏ, nam hay nữ đều trai giới thanh tịnh nên tất cả đều được an vui, hòa thuận nghĩa lý, hoan lạc, từ hiếu, cùng thúc liễm với nhau.

Có người gặp được lời Kinh Phật, nên gìn giữ và suy nghĩ sâu xa, không nên tạo những tội đã phạm về trước. Tự ăn năn tội ác đã qua, tích lũy thiện nghiệp, bỏ tà làm chánh.

Sáng nghe lời hay, chiều cải hối, phụng trì giới tinh tấn như người nghèo gặp được của báu. Dầu tại quê hương đất nước nào, nơi Phật đến đều truyền trao giới Kinh.

Chư Thiên, Chư Thần, mặt trời, Trăng, Sao, Vua Chúa, Quan Quân, Trưởng Giả, Nhân Dân, Rồng, Quỷ Thần, cầm thú, côn trùng, cho đến loài côn trùng nhỏ nhít... không ai mà không được khai mở tâm từ. Tất cả đều kính thờ, tôn kính theo Phật, tiếp nhận Kinh Đạo, vâng thọ thực hành.

Tức thời Vua cải hóa làm thiện, trai giới thanh tịnh, gột sạch thân tâm, đoan tâm chánh hạnh, ở địa vị cao nghiêm, chỉ dạy cho mọi người tuân theo làm thiện, thực hành theo giới cấm, nói và làm chân chánh.

Quan vâng thờ theo Vua, tuân lệnh một cách trung trực, không dám chống trái hay xem thường. Cha nói con nghe trong tình hiếu thuận. Anh em, chồng vợ, bà con, bè bạn trên dưới cùng lời lẽ thuận hòa.

Thứ bậc lớn nhỏ, biết kính nhường nhau, xem lễ như nghĩa, không khinh thường chống đối nhau. Tất cả đều chuyển đổi nghiệp xưa, tu tập hiện tại, gột rửa thân tâm, thay đổi trong ngoài đoan chánh, tự nhiên làm thiện, nên ước nguyện viên thành.

Tất cả thiện nghiệp được chuyển hóa theo đạo tự nhiên, thế nên mong cầu bất tử thì được trường thọ, mong cầu xuất thế thì được đạo Niết Bàn.

Đức Phật dạy: Oai thần của Phật rất cao, rất quý, làm tiêu ác hóa thành thiện và độ thoát tất cả. Nay Ta ra đời làm Phật, ở nơi thế gian nhiều khổ đau xấu ác này với tâm từ thương tưởng chỉ dạy, dẫn đường cho Chư Thiên, Vua Quan tả hữu, trưởng giả, nhân dân, tùy theo sự mong muốn của họ ta đều làm cho đắc đạo.

Những nơi nào Phật đã đi qua, dù là đất nước, quận huyện, làng xóm, núi đồi hay phố chợ... đều được giàu có, dư giả, thiên hạ thái bình, mặt trời, mặt trăng luôn vận hành, sáng tỏa bằng ánh sáng tốt đẹp bội phần, mưa gió thuận hòa, nhân dân an lạc. Không có kẻ mạnh đến hiếp kẻ yếu, ai cũng được đến nơi đến chốn.

Không có năm tật dịch, không có người bệnh gầy còm, binh đao nổi dậy. Trong nước không có giặc cướp, không có sự oan uổng, không có người bị giam cầm tù tội.

Vua Quan, nhân dân đều vui vẻ hân hoan, hiền lành, trung hậu, chí thành. Ai cũng tự giữ mình ngay thật và biết bảo vệ Quốc Gia, ôn hòa, hiếu thuận, hoàn toàn vui vẻ.

Biết cùng nhau ban ân thí đức, tâm hoan hỷ cùng yêu kính nhau, nhường nhịn nghĩa khiêm tốn, dùng lễ kính thờ theo thứ bậc trước sau, như cha như con, như anh như em. Ai cũng là Bậc Hiền Nhân, tiết lễ thuận hòa, hoàn toàn không có sự chống đối tranh cãi, vui vẻ tốt đẹp vô cùng.

Đức Phật dạy: Ta rất thương xót các ngươi, tha thiết như cha mẹ luôn nghĩ nhớ đến con và muốn độ thoát tất cả. Ngày nay Chư Thiên, Vua Quan, nhân dân và loài côn trùng nhỏ nhít khắp mười phương được Kinh giới của Phật, phụng hành Phật Đạo, đều được tâm tuệ sáng suốt, được thông suốt tất cả.

Ai nấy đều được vượt qua sự lo buồn đau khổ và được giải thoát. Nay ta làm Phật ở nơi năm ác, năm thống khổ, năm thiêu đốt.

Ta đã hàng phục năm ác, làm tiêu tan năm thống khổ và diệt mất năm sự thiêu đốt. Lấy thiện đánh đổi ác, nhổ bỏ khổ đau, làm cho được năm đạo, được năm thiện sáng tốt, đốt cháy ác không cho nổi dậy. Sau khi ta nhập Niết Bàn, Kinh Đạo mất dần, nhân dân xảo trá, rồi lại làm các việc ác, không làm các viện thiện, năm thiêu đốt nổi lên, năm thống khổ kịch liệt. Các việc xấu ác như trước tự nhiên trở lại.

Thời gian lâu sau trở nên dữ dội không thể nói hết. Ta chỉ nói chút ít cho các ngươi biết mà thôi.

Đức Phật bảo Bồ Tát A Dật và đại chúng: Các ngươi hãy suy nhĩ và nhớ lời ta, lần lượt chỉ dạy cho nhau, như Kinh Pháp Phật không dám trái phạm.

Bồ Tát A Dật quỳ xuống, chắp tay thưa: Đức Thế Tôn đã nói về sự thống khổ cực kỳ do người đời làm ác mới trở nên kịch liệt như vậy. Ngài đã từ bi thương xót độ thoát tất cả. Chúng con xin tiếp nhận lời dạy cao quý của Phật, lần lượt chỉ dạy nhau không dám trái phạm.

Đức Phật bảo A Nan: Ta thương tưởng các ngươi, làm cho tất cả được thấy Phật A Di Đà và các Bồ Tát, A La Hán ở cõi nước ấy.

Các ngươi có muốn thấy chăng?

Hiền Giả A Nan rất vui mừng, quỳ xuống chắp tay thưa: Xin cho chúng con được trông thấy Đức Phật A Di Đà và đại chúng ở cõi nước ấy.

Đức Phật bảo: Ngươi hãy sửa y và chắp tay hướng về phương Tây phía mặt trời lặn đảnh lễ Phật A Di Đà, cúi đầu sát đất, nói: Nam Mô A Di Đà Chánh Đẳng Chánh Giác.

Hiền Giả A Nan thưa: Chúng con xin vâng lời.

Hiền giả đứng dậy, chắp tay hướng về phương Tây phía mặt trời lặn đảnh lễ Phật A Di Đà, cúi đầu sát đất nói: Nam Mô A Di Đà Chánh Đẳng Chánh Giác. Hiền giả chưa kịp đứng lên thì Phật A Di Đà liền vận oai thần phóng hào quang sáng tỏa đến vô số cõi nước khắp mười phương. Vô số khắp đất Trời đều chấn động lớn.

Vô số khắp đất Trời đều có lưới báu núi Tu Di, lưới báu lớn núi đại Tu Di. Cõi nhỏ, cõi lớn khắp đất Trời, địa ngục nhỏ, địa ngục lớn, các núi rừng, khe suối, chỗ hang hốc tối tăm... đều được ánh sáng lớn ấy chiếu rực rỡ.

Tức thời Hiền giả A Nan, các Bồ Tát, A La Hán, Chư Thiên, Vua chúa, nhân dân đều được trông thấy Phật A Di Đà và các Bồ Tát, A La Hán nơi cõi nước bằng bảy báu, lòng vô cùng hân hoan phấn chấn, tất cả đều đứng lên đảnh lễ Đức Phật A Di Đà, cúi đầu sát đất và nói: Nam Mô A Di Đà Chánh Đẳng Chánh Giác.

Oai thần của Đức Phật A Di Đà phóng hào quang lớn, làm cho vô số Chư Thiên, nhân dân và loài cầm thú, côn trùng nhỏ nhít đều được thấy ánh sáng của Ngài, không ai mà không có tâm từ hoan hỷ.

Những chốn địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú đang bị tra khảo, nơi đau khổ nhọc nhằn tức thời được ngưng nghỉ, không còn bị tra khảo nữa, đều được thoát khỏi lo buồn khổ não.

Những người mù liền được trông thấy, những người điếc liền được nghe, những người câm liền nói được, những người gù được thẳng lưng, những người què quặt liền đi chạy được, những người bệnh liền được khỏi, những người yếu đuối liền được khang kiện, những người ngu si liền được trí tuệ, những người dâm dục liền được phạm hạnh, những người nóng giận hung dữ đều được tâm từ và làm thiện, những người bị ngộ độc thì không bị độc hành...

Tất cả những nhạc cụ như: Chuông, khánh, đàn cầm, đàn sắc, ống sáo... không đánh mà vẫn tự tạo thành năm âm thanh. Vòng xuyến của phụ nữ đều tự phát thành tiếng. Trăm giống chim muông đều tự cất tiếng hót vang. Ngay lúc ấy, không ai mà không vui mừng, thích được hóa độ.

Lúc bấy giờ, Chư Thiên Nhân ở các cõi nước đều mang hương hoa trên Trời đến. Họ ở trên hư không rải hoa cúng dường Chư Phật và trên Đức Phật A Di Đà.

Chư Thiên cùng trổi lên vạn loại kỹ nhạc tự nhiên. Trong lúc này, Chư Phật và các Bồ Tát, A La Hán đều rất vui vẻ an lạc, không thể dùng ngôn từ diễn tả được.

Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan, Bồ Tát A Dật và đại chúng: Ta đã nói về Đức Phật A Di Đà và các Bồ Tát, A La Hán cùng bảy báu tự nhiên của cõi nước ấy, có chút gì sai khác không?

Hiền Giả A Nan quỳ xuống, chắp tay thưa: Thế Tôn đã nói về sự tốt đẹp, an lạc của Cõi Phật A Di Đà, thật đúng như lời Phật dạy, không khác một chút nào.

Đức Phật dạy: Nếu Ta nói về sự tốt đẹp, an lạc của cõi nước và công đức của Phật A Di Đà suốt cả ngày đêm trọn một kiếp vẫn không thể hết được. Ở đây Ta chỉ vì các ngươi nói sơ lược mà thôi.

Bồ Tát A Dật quỳ xuống, chắp tay thỉnh hỏi Phật: Trong Cõi Phật hiện nay sẽ có bao nhiêu Bồ Tát bất thối chuyển được sanh sang Cõi Phật A Di Đà?

Con muốn nghe điều này.

Đức Phật bảo: Nếu ngươi muốn biết thì hãy lắng nghe cho rõ.

Bồ Tát A Dật thưa: Con xin vâng lời.

Đức Phật dạy: Trong cõi nước của ta sẽ có bảy trăm hai mươi ức Bồ Tát bất thối chuyển, sanh sang Cõi Phật A Di Đà. Một vị Bồ Tát bất thối chuyển sẽ lần lượt cúng dường vô số Chư Phật, tiếp đến sẽ làm Phật như Bồ Tát Di Lặc. Ngoài ra còn có vô số các Bồ Tát nhỏ nhiều không thể tính hết được đều sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Đức Phật bảo Bồ Tát A Dật: Không những chỉ có các Bồ Tát trong cõi nước ta sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà, mà còn có Phật ở cõi nước phương khác cũng có Bồ Tát như vậy.

Phật thứ nhất hiệu Đầu Lâu Hòa Tư, có một trăm tám mươi ức Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ hai hiệu La Lân Na A Kiệt, có chín mươi ức Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ ba hiệu Thất Đế Bỉ Hội, có hai trăm hai mươi ức Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ tư hiệu A Mật Quỳ La Tát, có hai trăm năm mươi ức Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ năm hiệu Lâu Ba Lê Ba Quỳ Tế, có sáu trăm ức Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ sáu hiệu Na Duy Vu Quỳ, có một vạn bốn ngàn Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ bảy hiệu Duy Lê Ba La Phan Quỳ Tế, có mười năm Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ tám hiệu Hòa A Quỳ, có tám Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ chín hiệu Thi Lợi Quần Quỳ, có tám trăm mười một ức Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ mười hiệu Na Tha Quỳ, có vạn ức Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ mười một hiệu Hòa La Na Duy Vu Quỳ Tế, có một vạn hai ngàn Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ mười hai hiệu Phất Lân Đồ Da Quỳ, trong cõi nước Ngài có các Bồ Tát nhiều vô số không thể tính hết, đều là những bậc Nhất thiết trí, có trí tuệ dõng mãnh và đã cúng dường vô số Chư Phật, cùng một tâm nguyện muốn được vãng sanh. Tất cả đều sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Cõi nước phương khác, Đức Phật thứ mười ba hiệu Tùy A Duyệt Kỳ Ba Đa Quỳ, có bảy trăm chín mươi ức Bồ Tát trong cõi nước Ngài sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Đức Phật dạy: Các Bồ Tát này đều là bất thối chuyển, trong đó có các Tỳ Kheo Tăng và vô số các Bồ Tát nhỏ cũng sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà.

Không riêng gì các Bồ Tát trong mười bốn Cõi Phật này sẽ vãng sanh, mà có vô số các Bồ Tát ở các cõi nước khắp mười phương sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà như các nước kia vậy.

Thật là nhiều vô lượng, họ cùng sang vân tập tại cõi nước Phật A Di Đà, số chúng đông không thể tính hết. Ta chỉ cần nói danh hiệu của vô số Chư Phật khắp mười phương suốt ngày đêm trọn một kiếp vẫn không hết được.

Ta chỉ nói số người, các Tỳ Kheo Tăng và các Bồ Tát ở các cõi nước sẽ sanh sang Cõi Phật A Di Đà suốt trong một kiếp không ngưng nghỉ vẫn không thể hết được. Ở đây Ta chỉ vì các ngươi nói tóm tắt một ít mà thôi.

Đức Phật bảo Hiền giả A Nan và Bồ Tát A Dật cùng đại chúng: Các Vua Quan, Nhân Dân, các Thiện Nam, Thiện Nữ ở thế gian này đời trước đã làm thiện nghiệp nên được phước lộc tràn đầy mới được nghe âm thanh Phật A Di Đà. Họ rất vui vẻ an lạc. Ta hoan hỷ thay họ.

Đức Phật dạy: Có những người Thiện Nam, Thiện Nữ được nghe âm thanh Phật A Di Đà, tâm từ hoan hỷ vô cùng, tâm ý trong sạch, sởn tóc gáy và xúc động rơi lệ. Những người này do đời trước đã thực hành Phật Đạo. Nếu Phật ở phương khác thì Bồ Tát chẳng phải là người phàm.

Nơi đó có người nam, người nữ hay người dân nào mà nghe âm thanh Phật A Di Đà lại không tin là có Phật, không tin lời Kinh Phật, không tin có Tỳ Kheo Tăng, trong tâm đầy nghi ngờ, hoàn toàn không tin gì cả.

Những người này sanh ra từ nơi đường ác, ngu si không biết đời trước, chưa dứt những tai ương xấu ác, cho nên vẫn chưa được độ thoát, nghi ngờ trong tâm, không có sự tín hướng như vậy.

Đức Phật dạy: Ta bảo các ngươi rằng: Nếu các ngươi thực hành thiện pháp, hãy nên phụng hành niềm tin nơi Phật A Di Đà, không được nghi ngờ. Sau khi ta nhập Niết Bàn, các ngươi và người đời sau không được nói rằng ta không tin có Cõi Phật A Di Đà. Thế nên ta làm cho các ngươi được trông thấy cõi nước Phật A Di Đà, thể hiện theo sự mong cầu của các ngươi.

Ta nói đầy đủ cho các ngươi về pháp chân thật và Kinh Giới. Các ngươi hãy giữ gìn cẩn thận như Pháp Phật, không được làm hủy hoại.

Ta trao Kinh này cho các ngươi, các ngươi hãy giữ Kinh thật vững bền, không nên thêm bớt Pháp Kinh một cách sai lầm. Sau khi ta nhập Niết Bàn, Kinh Đạo chỉ lưu lại một ngàn năm. Sau một ngàn năm, Kinh Đạo mất hẳn.

Vì lòng thương tưởng, Ta lưu lại Pháp Kinh này chỉ còn trăm năm. Hết một trăm năm mới mất hẳn, có thể đắc đạo tùy theo tâm nguyện.

Đức Phật dạy: Đấng Đạo Sư là bậc mở mắt, dẫn đường. Với trí tuệ sáng suốt, tự tay Ngài cứu độ mọi loài, làm cho họ đắc đạo Niết Bàn tốt đẹp.

Các ngươi thường nên từ  hiếu đối với Phật như cha mẹ. Hãy thường nhớ nghĩ ân thầy tổ, luôn nhớ nghĩ không thôi, như vậy sẽ nhanh chóng đạt đạo.

Đức Phật dạy: Thế gian có Phật thật khó gặp thay! Thật là khó gặp Đạo Sư hay Sa Môn vì người nói Kinh này. Khi Đức Phật nói Kinh này, tức thời có một vạn hai ngàn ức Chư Thiên, loài người đều được thiên nhãn, thấy xuyên suốt tất cả.

Họ nhất tâm thực hành đạo Bồ Tát. Có hai trăm ức Chư Thiên và loài người đắc đạo A Na Hàm. Có tám trăm Sa Môn đều đắc đạo A La Hán. Có bốn ức Bồ Tát đạt bất thối chuyển.

Phật thuyết Kinh này xong, các Bồ Tát, A La Hán, Chư Thiên, Vua Quan, dân chúng vô cùng hoan hỷ, đứng lên đảnh lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi đến trước Phật cung kính đảnh lễ dưới chân Ngài và lui ra.

***