Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh A Tra Bà Bà Câu Quỷ Thần đại Tướng Thượng Phật đà La Ni

PHẬT THUYẾT KINH

A TRA BÀ CÂU QUỶ THẦN ĐẠI TƯỚNG

THƯỢNG DÂNG LÊN PHẬT ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
 

PHẦN HAI
 

19. Truy Ngũ Phương Đại Lực Dược Xoa Vương Quân Chúng Ấn.

Úm, câu tỵ ra, sa ha.

Oṃkuṃbhīra svāhā.

Tay phải đem bốn ngón hướng xuống dước móc tay trái, duỗi thẳng cứng hai ngón cái, đưa hai ngón cái qua lại.

20. Truy A Lợi Đà Già Văn Trà Ấn.

Úm, hồ rô, hồ rô, già văn địa, sa ha.

Oṃ huru hurū camuṇḍa svāhā.

Hai ngón giữa ngón vô danh cùng quấn nhau, hai ngón út cùng cài chéo nhau, chỉ hướng lên trên cài chéo nhau, ngón trỏ cũng cài chéo nhau, đưa ngón cái qua lại.

21. Truy Tỳ Na Dạ Ca Quỷ Thần Vương Chú Ấn.

Úm, bạc ca ra, chuẩn đồ, a địa ba đa duệ, sa ha.

Oṃpakara śuṇḍa adhipataye svāhā.

Trước tiên dựng tám ngón, hai ngón vô danh cùng cài chéo nhau rũ xuống dưới hướng về lưng bàn tay, dựng thẳng hai ngón cái phụ bên cạnh ngón trỏ, đưa ngón cái qua lại.

22. Tập Ma Hê Thủ La Thiên Vương Nhị Thập Bát Bộ Ấn.

Hướng ngón út ngón vô danh vào bên trong cùng móc nhau, liền dựng ngón giữa cùng cài chéo nhau, cũng đem hai ngón trỏ đều dựng đứng phụ dưới móng bên cạnh ngón giữa, hai ngón cái cũng dựng đứng phụ sát bên, đưa ngón trỏ qua lại.

23. A Tra Bạc Câu Đại Nộ Sử Kim Cương Nhị Thập Bát Bộ Thần Hàng Ác Quỷ Ấn.

Ngồi nghênh đón nghênh toạ, hai tay nắm quyền, trợn mắt, ba lần cắn răng bặm môi dưới, đem hai quyền ấn mạnh trên hai bắp đùi. Đại Tướng Thân Ấn này, quỷ thần ác liền tự chết, tự cột trói xin tha mạng.

24. Đại Tướng Đại Duyệt Hội Thiên Long Quỷ Thần Tự Hộ Thân Ấn.

Hai tay đem hai ngón cái vịn bên trong lóng giữa của hai ngón vô danh. Hai bên trái phải đều giống nhau.

25. Bách Sự Bất Uý Bất Bị Đao Binh Quỷ Thần Thương Trước Y Giáp Ấn. Ấn mặc áo giáp, trăm việc chẳng sợ chẳng bị đao binh quỷ thần gây thương tích.

Tay trái cầm cây đao chống xuống, tay phải nhiễu quanh đầu ba vòng, nắm áo làm như thế đeo răng nanh. Quỷ nhìn thấy đang mặc áo giáp. Tụng Đại Chú một biến.

26. Thiên Bức Luân Hàng Quỷ Ấn.

Tay phải đem ngón cái đè trên lưng lóng giữa của ngón giữa ngón vô danh, dạnh như hình Bạt Chiết La Ấn.

27. Lập Thân Ấn.

Đứng thẳng, giơ bàn chân phải. Tay trái đem bốn ngón từ ngón trỏ trở xuống hướng về phía trước nắm quần. Tay phải đem ngón cái đè lóng giữa trên lưng của ba ngón từ ngón giữa trở xuống, duỗi ngón trỏ hướng về phía trước, chỉ tất cả bệnh liền khỏi, chỉ tất cả quỷ mỵ đều phục, chỉ mặt sông biển liền tự khô cạn.

28. Đao Ấn.

Lấy cành Thạch Lựu dài ba thước hai tấc rồi Chú vào ba biến. Tay phải cầm một đầu, tay trái chà xát ba lần. Quỷ nhìn thấy đó là cây đao, dưa tay trái nắm quần, tay phải như hình Bạt Chiết La có gai nhọn Kim Cương Kim Cương Thích Bạt Chiết La.

29. Cung Tiễn.

Tay trái đem ngón cái đè trên móng ngón trỏ, ngón vô danh, ngón út. Tay phải co ngón vô danh, ngón út trong lòng bàn tay, ngón cái đè móng ngón trỏ. Ở trong bàn tay trái nghiêng duỗi phóng ngón cái phải rồi búng ngón tay.

30. Truy Bát Nhã Bất Không Quyến Sách Sứ Giả Quỷ Thần Ấn.

Chắp hai tay lại để ngang trái tim, trống tám ngón làm Ấn cúng dường. Sau đó đem ngón cái đè ngón trỏ ngón giữa co trong hai lòng bàn tay, ngón vô danh, ngón út chắp lại như hình Phật Đảnh, làm bát nhã hàng quỷ thần Ấn.

Hai tay trái phải cùng hợp cổ tay, để hai ngón cái sát cạnh ngón trỏ, duỗi thẳng hai ngón giữa, co hai ngón trỏ ngón vô danh ngón út hơi cong cùng vịn đầu nhau, chính giữa lòng bàn tay để trống rỗng.

Đại Tướng Sử Thần Tán Cấm Pháp.

Trước tiên trì Chú cho có hiệu nghiệm rồi sau đó mới làm, nếu không như vậy thì không thành.

Thường thì sáng sớm, ở trước mặt Thần an một một chậu, nước hoa trong giếng tỉnh hoa thuỷ, một lò hương. Chú Sư chỉnh quần áo, ngồi nghênh đón nghênh toạ ngay trong giường, không được cười, tay tác Đại Nộ Ấn, chỉ có người bị bệnh quỷ mới được vào, không được nói nhiều, chỉ nói mau ngồi xuống, dùng lời giận dữ quát mắng.

Nếu dạy bảo đã biết sợ thì mới bảo rằng. Thần Chúng còn đợi đến lúc nào, hãy mau chóng cột trói đem lại. Nói lớn tiếng như quan sai người, nghe tiếng liền cột trói. Muốn đánh, muốn cấm… chỉ tuỳ theo thời, nói một lời đừng có nói nhiều. Pháp Đại Tướng Tán Xứ này không tụng Chú.

Nếu có người Trì Chú của ta, là người bình đẳng có hiền đức thì mới có thể trì, nếu chẳng như thế chỉ tự tổn hại thân.

Lược nói xong chút ít hành dụng, nếu rộng nói thì cùng kiếp cũng chẳng hết.

Truy Ngũ Dược Xoa Tướng Quân Chú một bài nhất thủ.

Nam Mô Phật Đà Gia. Nam Mô Đạt Ma Gia. Nam Mô Tăng Già Gia. Nam Mô Phật Lợi Dược Xoa. Nam Mô A Lợi Dược Xoa, Đế Phật Lợi Dược Xoa, Yết Lam Dược Xoa, Đế Lợi Dược Xoa, A Tra Bà Câu, Vô Vô, Phán Phán Tra, Sa Ha.

Namo buddhāya.

Namo dharmāya.

Namo saṃghāya.

Namo Buri yakṣa.

Namo Ari yakṣa, Teburi yakṣa, Galaṃ yakṣa, Teri yakṣa, Aṭavaka phaṭ phaṭ svāhā.

Bộ Lạc Bách Tính Tiểu Tâm Chú.

Nam Mô đa luật, đa bột luật, bà ra bột luật, chá hiệt mê, chá hiệt mê, đãn ra tán đạm, ô viêm tỳ, sa ha.

Namo tariḥ taburiḥ bharaburiḥ śakyame śakyame trasaṅdhaṃ uyaṃvi svāhā.

Phù này rất hiệu nghiệm, có oai đức. Tất cả bệnh khó trị, một lần Chú hai mươi mốt biến liền khỏi. Đeo trong đêm tức không có mộng ác. Đeo Phù này vào trong quân trận liền được thắng, vào nước chẳng bị cuốn chìm, vào lửa chẳng bị thiêu đốt.

Nếu một mình sai khiến Thần thì nên tuỳ theo tâm tụng mà kêu gọi đều thông, liền đến. Chỉ người được Chú thành thì lời nói ra từ miệng, nói tức làm. Đừng ở trong chúng làm pháp, sợ tổn hại cho chúng sanh quỷ thần.

Bấy giờ A Tra Bà Câu bạch Phật rằng.

Thế Tôn! Nguyện xin nói Phù này cho người có trí tuệ mới có thể tụng. Nếu người chẳng thể tụng Chú này thì đừng nên niệm, kẻo chúng sanh ấy bị phản ngược phải chịu tai ương, hoạ nạn.

Khi ấy Đức Phật bảo tất cả đại chúng. Nay ta có Tâm Ấn tên là Quá Khứ Vị Lai Hiện Tại Chư Phật Tâm Thần Ấn trừ khử tật bệnh khổ ách của chúng sanh, dời núi, ngưng dòng nước, diệt lửa, làm biển khô cạn… Ấn tại rừng vắng thì cỏ cây, hoa lá càng thêm tươi tốt. Làm lở núi, khiến cho quỷ ác ở nơi hoang vắng bị mê mờ…

Nếu trì Ấn này vào nơi có tật bệnh thì tất cả mọi bệnh thảy đều tiêu diệt không còn sót. Phật không có nói dối, nay ta vì ông nói Thần Ấn.

Như vậy Đức Phật bảo hàng bốn chúng. Nếu người trì Ấn này vào trong lửa thì lửa chẳng thể thiêu đốt, vào nước chẳng bị cuốn chìm, vào núi chẳng sợ cọp sói sư tử. Nếu Tỳ Kheo phá giới dùng Ngưu Hoàng xoa bôi Ấn rồi ấn trên mảng trúc mỏng, nuốt đủ mười vạn lá sẽ được nhất địa, nhị địa, tất cả mọi tội đều diệt.

Người nữ bị nạn sinh đẻ, dùng Ấn ấn bên trên bên dưới trái tim, liền được sinh đẻ bình an.

Dùng Đao Ấn thì cây núi kiếm tự gãy đổ, vạc dầu nóng thành Cam Lộ, nói lời khen chê đều trừ khắp tất cả bệnh khổ.

Nếu người làm pháp chẳng thành. Dùng Tâm Ấn này thì tất cả pháp đều được thành tựu. Đeo Thần Ấn này thì điều mong cầu được như ý. Người trì, ngậm hương trong miệng mãn bảy ngày, trì trai lễ bái, hành đạo liền được thành biện.

Bấy giờ A Tra Bạc Câu bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nay con có Bát Bộ Thần Ấn. Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con với chúng sinh đời vị lai mà kết.

Đức Phật nói: Hãy lắng nghe! Ta vì ông kết Bát Bộ Vô Biên Vô Lượng Thần Ấn.

Như vậy! Đây là Bát Bộ Thần Ấn quản lục quỷ thần. Nếu cần khảo triệu Thần Vương ở bốn phương thì nâng Ấn hướng về thời vị ấy liền đến, tụng Bát Bộ Chú hai mươi mốt biến.

Ấn ấy là: Dùng Huân Lục Hương, Trầm Thủ Hương, Bạch Giao Hương, Bạch Đàn Hương hợp lại rồi thiêu đốt, tụng Bát Bộ Chú mà khắc Ấn.

Đây là Kim Luân Ấn trị quỷ ác, quỷ khó hàng phục. Dùng cây gai mà khắc.

Đây là A Tu La Nguyệt Luân Tam Muội Ấn. Dùng Bạch Đàn Hương dài hai tấc ba phân mà khắc. Trị quỷ thần, loài khó hàng phục, ấn trái tim người bị hôn mê rất hiệu nghiệm.

Bấy giờ Đại Tướng bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con có Thiên Nhược Đằng Xà Ấn, tất cả thuốc độc, quỷ mỵ ác… đều hay hàng phục, ấn vào chỗ bị bệnh rất hiệu nghiệm. Nay con xin nói, văn ấy như vậy.

Đây là Thiên Cẩu Đằng Xà Ấn. Bên trên làm cái mâm, đầu Rồng co ngay trên Thiên Cẩu, Thiên Cẩu như hình sư tử đều há miệng. Làm Ấn dùng gỗ Đào mà khắc.

Diệm Ấn. Dùng vàng, đồng đỏ mà khắc rồi tự đeo. Muốn đi đến đâu, nâng Ấn hướng về chốn ấy, kèm ấn trên giấy rồi nuốt bảy lá rất hiệu nghiệm. Văn ấy như vậy.

Đây là Nhật Luân Tam Muội Hoả Diệm Ấn. Ở bên trong Ấn vẽ làm con quạ có ba chân, con quạ như hình chim phượng, bốn mặt rực lửa vây quanh. Hướng vào bên trong mà chế.

Đại Tướng bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con có Đao Ấn dùng lai tâm?

Mà khắc. Ấn vào người bệnh kèm ấn trên giấy. Lệnh Ấn Phù của Trời vào trong bụng sẽ đâm chích tâm Quỷ. Bệnh nhân bị mê muộn rất hiệu nghiệm. Nay con nói đồ hình ấy như vậy.

Bên trên làm Lô Xá Na Phật, bên trên làm dù lọng, hai bên trái phải có Rồng bay, dưới Trời có hoa sen, dưới hoa có hình cái rìu, bên trong làm một Thủ Khế Thần, dưới bàn chân của Thần làm một Đại Dược Xoa Vương, hai bên trái phải làm Long Vương, vẽ trên lụa vuông tám tấc đều dùng Ngưu Hoàng mà vẽ, không được dùng màu tạp khác.

Khế ấy. Bắt đầu vào ngày mồng một tháng tám, trên đảnh núi cao, tụng Chú, trì Trai, mặc áo sạch, thọ Bồ Tát Giới.

Giải làm Ấn này, trì ngay trên đầu, liền hay trừ hẳn tất cả tai ách, hay chống lại hàng phục quỷ thần, vào núi thì Sơn Thần tự đến quy kính, vào nước thì Thuỷ Thần nâng bàn chân nghênh tiếp, vào cung Rồng thì Long Vương đều nghênh đón, vào cung A tu la thì A tu la đem vợ con quyến thuộc đến ngênh tiếp.

Nếu chẳng y theo pháp thì không có hiệu nghiệm.

Trước tiên là oai đức. Trị tất cả trùng độc thì kêu gọi Hàng Oán Đồng Lực Điểu.

Nếu đánh quỷ thần thì kêu gọi Hắc Ám Thiên Vương Hàng phục các rồng độc thì kêu gọi Kim Xí Điểu Vương Trị rắn độc thì kêu gọi Đại Đỗ Cưu Bàn Trà.

Bốn phương hàng ma thì kêu gọi Thiên Ma Ba Tuần.

Hàng phục thọ tinh thì sai Kim Cương.

Hàng phục bệnh bên trong thân thì sai Quân Trà Lợi.

Trừ đạo tặc thì kêu gọi Tán Chi Ma Ni Bạt Đà.

Hàng phục Sơn Thần thì kêu gọi Mục Chân Lân Vương.

Hưng sanh cầu lợi thì kêu gọi Công Đức Thiên Vương.

Tuỳ thân ra vào thì kêu gọi mười bốn La Sát Sa Vương.

Tất cả chẳng quyết định được thì kêu gọi Ta A Tra Bạc Câu Đại Tướng.

Phàm muốn sai khiến quỷ thần đều nên chí tâm đảnh lễ, đừng khinh mạn Thần Vương. Sai khiến xong lại nói. Rất xấu hổ, xin sám tạ, không có vật cúng dường, nay cúi đầu, cầu xin xót thương, xin đảnh lễ.

Phàm lúc muốn tụng Chú thời trước tiên phải sạch sẽ, đánh răng, xúc miệng, kiêng cữ. Sáng sớm cấm người, lấy nước hoa dưới giếng tỉnh hoa thuỷ chứa đầy vật khí bằng đồng, hướng mặt về phương Đông, nuốt nước bọt chín lần.

Phàm muốn trị bệnh, trước lúc ăn gom chung hết rồi buông thả Thần đi.

Phàm cấm người xong, liền khiến cho sáu nẻo thảy đều biết.

Nếu người bị đau răng, nhức buốt không chịu nổi, dùng đao chỉ ba lần, liền khỏi.

Tâm bị bệnh. Dùng đao chỉ, đâm vào liền khỏi.

Đầu bị bệnh, mắt bị hoa… dùng đao chỉ vào liền khỏi.

Đàn bà bị bệnh Đái Hạ. Chú vào đao một trăm lẻ tám biến rồi chỉ vào liền khỏi.

Bị bệnh Trĩ, dùng Chú kêu gọi Hàng Oán Điểu Vương mổ ba ngày liền khỏi.

Bị bệnh Lỵ, Chú vào Tỉnh Hoa Thuỷ ba biến rồi cho uống, lại đùng đao đâm dưới rốn liền khỏi.

Chú Sư không được đụng chạm người nữ cũng chẳng phạm ngũ tân, chẳng dùng đao, đem bàn tay phải nắm quyền, duỗi ngón trỏ mà chỉ thì tất cả bệnh đều hết.

Nhìn thấy tất cả cọp, sói, sư tử, chồn hoang… dùng ngón tay chỉ thì miệng liền bị bế ắt chẳng hại người.

Nếu cọp, sói gây bạo loạn cho bách tính nhân dân. Dùng Thủ Ấn chỉ, miệng nói rằng. Trăm thú lắng nghe. Phụng Sắc Chỉ của Thượng Đế. Cọp, sói nghe rồi liền nằm xuống không dám đứng dậy.

Nếu bị chim bắt, dùng tay mà chỉ, tức chẳng dám gây hại.

Nếu chó cắn người. Dùng tay mà chỉ, dưới đất viết. Sư Tử Hống Vương tróc hổ thì chó liền sợ hãi bỏ đi.

Muốn đi xa. Chú vào bàn chân hai mươi mốt biến rồi đi, tức chẳng bị đau nhức cũng không mỏi mệt.

Nếu người trì Pháp, tụng Chú vào biển lớn thì Thuỷ Thần liền nâng đỡ bàn chân đưa đi qua.

Chú vào lửa ba biến, cắn răng ba lần, miệng nói. Hỏa Thần Vô Kỵ Lợi Quang mau chóng đi vào thì chẳng bị thiêu đốt.

Muốn khiến người kính niệm. Lấy tất cả hoa lá với hạt của cây Hợp Hoan Śiriṣa giã nát thành bột, lấy nước cốt Huân Lục Hương hoà làm một viên lớn như viên đạn, dùng đao chẻ làm hai mảnh, một đằng dùng giấy viết tên họ người kia, một đằng dùng giấy tự viết tên của mình… rồi để trên mỗi miếng thuốc, hợp hai mặt lại, Chú ba biến, miệng nói rằng.

Tôi họ tên… mau trục người họ tên… đầu đêm thời khiến Sâm Thần Sao Sâm, sao Thần bắt đem tới, cũng bái ba bái thì người kia liền mất tâm tính đi đến, không có nghi ngờ.

Nếu muốn tất cả người ác chịu khuất phục, khiến hoà giải thì có thể làm một người cây mộc nhân dài một tấc, hướng mặt người cây về vách tường phía Bắc. Chứ Sư hướng mặt về phương Đông, tụng Chú 120 biến, một ngày lấy một nắm đất lấp lại cho đến khi người cây bị lấp mất thì người kia liền đến chịu hàng phục.

Cũng có pháp. Muốn chặt đứt tất cả người lưỡi đỏ xích thiệt nhân nên tinh tâm dụng ý đều hiệu nghiệm. Trên giấy viết tên người ác, lại vẽ Phù để trong áo thì người nhìn thấy liền vui vẻ.

Nếu lấy máu của binh sĩ chết viết tên gọi của người ác, cũng vẽ hình người ác, dùng Phù ngậm trong miệng khiến tất cả người bị bệng lác, lưỡi bị rụt vào trong, cột dưới đuôi cái cối, tuỳ ý đâm giã, nội trong ba ngày người ác tự cột trói.

Cũng có pháp. Dùng Chu Sa hoà hợp, nên viết tên người ác, đem đạp dưới chân thì kẻ kia liền bị câm, môi xanh mặt đen, người nhìn thấy đều mắng chửi. Lấy Phù lên liền hết.

Nếu truy bắt quỷ thần, để Phù trước chỗ ngồi, dùng vật hợp lại thì Quỷ liền đến. Nếu bảo đi liền đi.

Nếu truy bắt hai mươi tám Bộ Chúng Lạc Quỷ, vẽ Phù hợp lại, Chú ba biến, cắn răng chín lần thì Quỷ liền đến.

Nếu truy bắt Việt Phương Quỷ, vẽ Phù để bên dưới vật, Chú ba biến, liền đến.

Nếu truy bắt Phù Du Quỷ, vẽ Phù hợp lại, liền đến.

Nếu triệu tất cả Diêm Phù Đề quỷ thần Vương. Lấy một chậu đầy máu, hai chậu bánh, đốt Huân Lục Hương rồi chỉ kêu tên, cúng tế. Một lát có người áo xanh đi đến, phút chốc liền đến.

Nếu tập hợp tất cả cọp, sói, trăm thú. An Phù hợp lại thì tất cả cọp, sói, trùng theo thứ tự đều đến tập hội. Gỡ Phù liền đi.

Nếu dán Phù Ấn trên cây thì tất cả chim bay đều bay đến. Gỡ Phù liền đi nếu Chú vào nước an phù rồi uống sẽ được thông minh chẳng quên.

Nếu cầm Phù đến chốn quan trường thì người nhìn thấy đều sợ hãi.

Nếu muốn khiến người ở xa đi đến thì khiến Ma Ha Ca La Mahā kāla dẫn đến.

Lại tác pháp, an phù hợp lại thì người kia chẳng hay biết liền đến.

Nếu Chú vào ngón trỏ phải rồi chỉ thì ngưng nhớ nghĩ đến nữ sắc, chẳng nhớ nghĩ đến người nam.

Nếu Chú vào đoa, chỉ đan tễ thuốc thì thuốc lạnh như băng, uống vào thân liền hết.

Nếu dùng đao chỉ vào cây cối rồi Chú một ngàn biến thì cây tự trốc gốc.

Nếu Chú vào đao hai mươi mốt biến, chỉ chim bay thì rông rụng xuống như mưa.

Nếu Chú vào đao hai mươi mốt biến, chỉ nhọt ác liền trừ khỏi. Hoặc bốn mươi chín, một trăm lẻ tám biến liền tiêu diệt.

Nếu Chú vào đao hai mươi mốt biến, muốn đi xa bốn phương thì mang theo, liền không có chướng ngại.

Nếu muốn vào núi, sông. Chú vào đao hai mươi mốt biến rồi vào thì không bị nạn thú ác.

Nếu bị bệnh Hổ Quỷ, hoặc hai ngày pháp một lần, hoặc ba ngày phát một lần.

Nên giận dữ Chú vào liền khỏi. Nếu chẳng hết, thì Chú ba biến liền tự nói rồi bỏ đi, liền khỏi.

Nếu bị sâu mọt, bò cạp cắn. Chú vào gừng tươi một biến, đâm giã rồi đắp lên liền khỏi.

Nếu bị ong chích. Chú vào đao ba biến rồi chỉ vào, liền khỏi.

Nếu bị rắn cắn. Chú vào nước muối nóng rồi tắm, liền khỏi.

Nếu bị người Yếm Cổ. Chú hai mươi mốt biến rồi dùng cỏ tranh phất phủi, liền khỏi.

Nếu quỷ thần khó hàng phục, lấy phần giữa ruột của con lừa lư trung thiêu đốt rồi xông dưới lỗ mũi, liền ngã nhào xuống tự nói.

Nếu bị mắng chửi chẳng ngưng. Chú vào hạt cải trắng rồi thiêu đốt, lại ném đánh trên mặt, liền té xuống học máu.

Nếu Rồng làm mưa gió ác. Chú vào đao bốn mươi mốt biến rồi chỉ trong mây, tức chảy máu và ánh sáng tuôn ra.

Nếu người mói năng ngọng nghịu. Mỗi tháng ngày mồng một, dùng đao đâm vào miệng, chẳng quá ba lần liền khỏi.

Nếu bị nhện cắn. Kêu gọi Giáng Oán Điểu Vương mổ, liền khỏi.

Nếu bị bệnh thời khí. Chú vào đao rồi đâm trên trái tim kèm Chú vào nước phun lên, liền khỏi.

Nếu Chú quỷ thần bệnh, biết tên họ xong cầm đao đi đến, liền đột ngột đánh phóng ba lần, liền khỏi. Bắt lấy giao cho Nam Đẩu nhốt vào ngục, sau bảy ngày mới thả ra.

Nếu chó cắn lộn, Chú vào liền giải trừ khiến chúng bỏ đi.

Nếu Chú vào con rắn ba biến, liền chẳng gây thương tích cho người. Lấy bỏ trong áo cũng được, thả ra liền bỏ đi.

Nếu chỉ tụng Chú được thần lực thì vào nước chẳng bị cuốn chìm, vào lửa chẳng bị thiêu đốt, vào Quang chẳng giận, vào hang cọp chẳng bị thương. Hoặc gặp thú ác, giận dữ mà quát lên thì chúng bị mất tính té ngã.

Nếu Chú ở tháng mùa hạ hay khiến cho tuyết rơi, tháng mùa đông hay khiến cho tuôn mưa.

Chú vào tinh thần các ngôi sao liền tan diệt.

Chú vào mặt trời, mặt trăng liền mất ánh sáng.

Chú vào đạo tặc ác, chẳng kể xa gần, tự cột trói đến đầu thú.

Chú vào con bò, khiến chẳng đi, cũng chẳng ăn cỏ uống nước mà một tháng chẳng chết.

Chú vào nước liền thành nước sôi, hoặc thành sữa.

Hoặc ở trên đảnh núi cao, tụng một trăm lẻ tám biến liền có quỷ ác, Dược Xoa đi đến. Đừng nhìn, chỉ trong chốc lát tức có hằng hà sa quỷ vây quanh. Chú Sư không được nói, chỉ phút chốc biến mất, không còn một ai.

Hành giả Chú vào đao, hay dời núi ngăn sông, tồi phục ngoại đạo, tất cả quỷ thần không dám cản trở. Quỷ nhìn thấy hành giả như ta không có khác.

Chú vào cành Thạch Chỉ một lần, dùng tay đè lên thì quỷ nhìn thấy đó là cây đao.

Chú tà sư, chẳng kể nhiều tâm lực lớn hay không, vẽ chung quanh đất, đều bị cột trói, khóc lóc nói rằng. Chú tà khắp người khó hết được. Do nghiệp nặng của thân trước. Xin Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu giúp cho dùng Quán Thế Âm Bồ Tát Diệt Tội Ấn mà ấn.

Trị người bị bệnh Ma, nên xưng Bất Không Quyến Sách Bồ Tát ba lần, thì dễ dàng trừ khỏi.

Muốn trị bệnh cho người ở nhà khác, nên truy Táo Quân mà hỏi, liền biết cát hung, thật giả. Khiến Nam Đẩu Quân đánh cấm thì người nữ thiện kia liền nói việc thiện ác.

Phàm người có bệnh, nếu tin thì trị. Kẻ nhất xiển đề không tin thì chăng nên trị vì rất khó khỏi bệnh. Chú chú vào nước rồi phun vào thì tất cả bệnh của người cũng được trừ khỏi.

Nếu đàn bà không có con. Tắm rửa sạch sẽ, chí tâm quy mạng Tam Bảo, dùng một hạt Bạch Giới Tử hạt cải trắng Chú vào một ngàn không trăm lẻ tám biến rồi cho nuốt vào, liền có con.

Nếu đệ tử của ta thì ta tự hộ trì, không cho phi nhân nào được dịp thuận tiện gây hại. Ở trong tất cả quỷ thần khởi tâm cung kính, trong tất cả Chú Sư khởi tâm anh em, luôn hành bình đẳng, không được cống cao ngã mạn. Lại ở trong tất cả quỷ thần, tưởng xem là thiện tri thức.

Nếu đàn bà bị nạn sanh đẻ khó, lúc sắp chết thời bảo rằng. Vua chỉ có một con, tư mạng đừng để cho ngưng dứt Chú vào sợi dây cột đeo trên đảnh liền khỏi.

Nếu bò ngựa bị dịch. Chú vào đất một trăm lẻ tám biến rồi rải trên thân liền khỏi.

Nếu bị bệnh lâm bệnh lâm, cuống đái sưng loét, đi đái ra lẫn mủ mà buốt gọi là lâm, rất hay lây. Chú một trăm hai mươi biến vào nước cốt nấu tiền đồng đỏ, uống vào liền khỏi.

Nếu muốn cột trói người, chẳng phải hao sức dùng Ấn, chỉ chí tâm tụng Chú, khiến cột trói liền cột trói, khiến đánh liền đánh, thuận theo tâm người.

Nay ta vì Đức Phật khen ngợi biến hoá dương hoá cho nên biến ra thân Bồ Tát, làm thân giận dữ hàng phục. Ta gần gũi ở trước mặt Phật tự nói công năng, Đức Phật liền nhận Thần Ấn của ta rồi cho phép làm.

Ngay ngày dùng thời liền có Đại Nộ Kim Cang nói Tồi Toái Quỷ Chú, Quán Thế Âm Bồ Tát nói Quyến Sách Chú, Đại Tự Tại Thiên Vương cũng nói Nhất Đạo Chú, Ma Hể Thủ La Thiên, bốn Thiên Vương nói năm bài Tứ Phương Diệt Quỷ Chú.

Lại Ta là Nguyên Soái Đại Tướng ở trong tất cả Thần Quỷ, Dược Xoa, La Sát, Trời, Rồng, A Tu La, Kim Cương… làm vị Tổng Quản của các quỷ thần. Ở đời mạt pháp sau này, hộ niệm chúng sanh khiến cho khắp cả được an ổn.

Ta xem chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới giống như con một, chẳng để cho quỷ thần ác gây nhiễu loạn chúng sanh.

Nếu có quỷ thần gây não loạn Chú Sư thì ta sẽ lãnh một vạn Quỷ Thần vương, trăm vạn Dược Xoa La Sát quân chúng, Trời, Rồng, A Tu La chúng, tám Bộ Quỷ Thần Tướng Quân, khiến bốn vị Thiên Vương đều lãnh trăm ức Quỷ Thần trước sau vây quanh, đi qua các nơi, núi sông rung rinh, trăm quỷ tự bỏ chạy.

Lúc bấy giờ, ta bảo tám Bộ Trời Rồng, quỷ thần tuôn mưa lớn, khởi gió lớn, kéo mây che mờ Trời đất. Ngay lúc ta giận dữ thời mặt trời, mặt trăng không có ánh sáng, sấm chớp sét đánh trăm cây cỏ tự bốc cháy, khiến tất cả chúng sanh chạy trốn vào hang hốc.

Sau đó khiến chày Kim Cang đập nát đầu quỷ thần ác vỡ vụn như bụi nhỏ, làm các Chú đều sợ. Tỳ Na Dạ Ca gây não hại, ta khiến Kim Cang Tạng Vương thâu lục không cho làm hại.

Chẳng nên sợ Tỳ Na Dạ Ca, Quỷ Thần ác, La Sát, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, Bố Đan Na, Tỳ Xá Xà, Ma Đặng Già với quyến thuộc của Ma. Vị Vua ấy tức là Quản Tùng của Ta cũng chẳng đến gây sợ hãi.

Nếu muốn trừ tà. Trước tiên bày một toà thức ăn uống rồi báo rằng. Các ngươi mau đi như gió, đến ở cảnh ngoài. Nếu chẳng đi ắt có thể bị trừ khử.

Lại nếu cầu thuốc Tiên. Vào núi sâu, nơi không có người… ở dưới một gốc cây lớn, ngồi không đứng dậy, ba ngày không ăn thì Tiên Nhân đi đến, dâng thuốc, uống vào sống lâu bằng trời đất.

Nếu nước biển lớn, chẳng thể qua được. Chú bảy biến, búng ngón tay ba lần tức Long Vương lại rước.

Lại nếu chẳng trị bệnh, chỉ tụng Chú, chẳng kể nhiều ít ngàn vạn biến, chỉ phát tâm lành, ở trong tất cả quỷ thần tưởng làm đại thiện tri thức, ở tất cả hữu tình tác tưởng từ bi bình đẳng thì người ấy khi chết không bị qua địa ngục, có các Bồ Tát, người Trời nắm tay dắt đi.

Aṭbhaku sutraṃ?

Aṭavaka sutraṃ.

A Tra Bà Câu Kinh.

***