Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh A Tra Bạc Câu Nguyên Soái đại Tướng Thượng Phật đà La Ni Tu Hành Nghi Quỹ

PHẬT THUYẾT KINH

A TRA BẠC CÂU NGUYÊN SOÀI

ĐẠI TƯỚNG THƯỢNG PHẬT

ĐÀ LA NI TU HÀNH NGHI QUỸ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiện Vô Uý, Đời Đường
 

PHẦN BỐN
 

Nếu có phụ nữ trị bệnh chẳng nhất định nên khiến người chồng cùng đi theo cùng chữa trị chẳng như thế thì đừng chữa trị. Nếu chữa trị thì đừng cười cùng hướng vào nhau xong tức khiến đi.

1. Nếu trị bệnh tinh quỷ thì nên sai khiến quyến thuộc của Thanh Diện Ni Lam Bà.

2. Nếu trị bệnh mỵ thì nên sai khiến Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương.

3. Nếu trị bệnh thần thì nên sai khiến Đại Tồi Toái Kim Cang Lực Sĩ.

4. Nếu trị bệnh võng lượng thì nên sai khiến Tây Phương Thiên Vương.

5. Nếu trị bệnh quỷ thì nên sai khiến Ma Ha Ca La Đại Thần Vương.

6. Nếu trị bệnh mãnh quỷ thì nên sai khiến Nam Phương Thiên Vương.

7. Nếu trị bệnh gầy ốm thì nên sai khiến Ma Đăng Già Đại Thần Lực Thiên Vương.

8. Nếu trị bệnh cốt chưng một dạng bệnh do Âm hư lao nhọc thì nên sai khiến Cưu Bàn Trà Vương.

9. Nếu trị bệnh Bạch Hổ thì nên sai khiến Ma Hê Thủ La Thiên Vương.

10. Nếu trị oan gia thì nên sai khiến Tỳ Xá Già Quỷ Vương.

11. Nếu khiến cho quỷ chạy tan thì nên sai khiến Kim Cang Mật Tích.

12. Giáng phục tất cả thú ác thì hô gọi Sư Tử Hống Vương.

13. Trị Thiên Hành Bệnh Khí thì hô gọi Bạch Hắc Long Vương.

14. Trị tất cả trùng độc thì hô gọi Giáng Oán Đồng Lực Điểu Vương.

15. Nếu đánh quỷ thì hô gọi hắc ám Thiên Vương.

16. Trị phục các Rồng thì hô gọi Kim Sí Điểu Vương.

17. Nếu trị rắn độc thì hô gọi Đại Mẫu Cưu Bàn Trà.

18. Giáng phục ma quỷ thì hô gọi Thiên Ma Ba Tuần.

19. Giáng phục tinh của cây thụ tinh thì sai khiến Hỏa Đầu Kim Cang.

20. Giáng phục bệnh bên trong thì sai khiến Quân Trà Lợi.

21. Nếu tịch trừ trộm cướp thì hô gọi Ma Ni Tán Chi Bạt Đà.

22. Giáng phục Thần núi thì hô gọi Mục Chân Lân Vương.

23. Muốn hưng sanh cầu lợi thì hô gọi Công Đức Thiên Vương.

24. Muốn tùy theo thân ra vào thì hô gọi Thập Tứ La Sát sa Vương.

25. Nếu tất cả việc chẳng quyết đoán được thì nên hô gọi ta A Tra Bạc Câu Đại Tưóng.

Phàm muốn sai khiến Thần đều nên chí tâm đảnh lễ đừng khinh mạn Thần Vương.

Sai khiến xong lại lễ rằng: Thật xấu hổ vì không có cúng dường. Xin cúi đầu cầu mong thương xót.

Phàm muốn tụng Chú thì nên tắm gội sạch sẽ súc miệng bảy lần. Sáng sớm cấm người lấy nước hoa dưới giếng chứa đầy trong vật khí bằng đồng hướng mặt về phương Đông uống chín lần.

Phàm trị bệnh trước bữa ăn hợp tất cả xong rồi đưa Thần đi.

Phàm cấm người tức khiến cho sáu đường được thanh tịnh nên biết vậy.

Phàm người trì niệm được sức Chú xong tùy theo tâm dùng. Dùng một trị cả vạn có thế biết điều này vậy.

Pháp một: Nếu người bị đau buốt răng răng nanh chẳng thể nhẫn chịu được.

Dùng cây đao chỉ ba lần liền khỏi.

Pháp hai: Nếu người bị đau tim. Dùng cây đao chỉ vào liền khỏi.

Pháp ba: Nếu người bị đau đầu bệnh về con mắt. Dùng cây đao chỉ vào liền khỏi.

Pháp bốn: Nếu người bị bệnh đới hạ bệnh tật của phụ nữ. Chú vào cây đao một trăm biến rồi chỉ vào liền khỏi.

Pháp năm: Nếu người bị bệnh trĩ. Chú vào cây đao xong hô gọi Giáng Oán Điểu.

Vương mổ ăn ba ngày liền khỏi.

Pháp sáu: Nếu người bị bệnh Lỵ. Chú vào nước hoa dưới giếng ba lần rồi cho uống vào lại dùng cây đao đâm chích dưới rốn liền khỏi.

Lại tay của Chú Sư chẳng được chạm vào người nữ lại chẳng phạm vào ngũ tân chẳng nên dùng đao chỉ thẳng. Dùng tay nắm quyền duỗi ngón trỏ chỉ vào thì tất cả bệnh dưới bàn tay liền khỏi.

Pháp bảy: Nếu thấy tất cả cọp sói sư tử dã can… dùng ngón tay chỉ vào thì miệng bị bế tắc chẳng thể hại người.

Pháp tám: Nếu cọp sói bạo loạn người dân trăm họ.

Dùng tay Ấn chỉ miệnh nói rằng: Trăm thú hãy nghe cho kỹ! Phụng Sắc Chỉ của Thượng Đế. Cọp sói nghe xong tức nằm ép xuống chẳng dám đứng dậy.

Pháp chín: Nếu chim muốn chộp bắt. Dùng bàn tay chỉ vào tức chẳng thể gây hại.

Pháp mười: Nếu chó cắn người. Dùng tay chỉ vào tức ở trên đất vẽ Sư Tử Hống Vương chộp bắt cọp thì con chó liền đánh mất tánh bỏ đi.

Pháp mười một: Nếu muốn đi xa. Chú vào bàn chân hai mươi mốt biến rồi đi thì bàn chân chẳng đau nhức cũng chẳng bị mỏi mệt.

Pháp mười hai: Nếu người trì Pháp tụng Chú đi vào trong nước thì Thủy Thần nâng đỡ đưa đi qua.

Pháp mười ba: Chú vào lửa ba biến nghiến răng ba lần miệng nói: Hỏa Thần Vô Kỵ Quang cấp cấp rồi đi vào thì chẳng bị lửa thiêu đốt.

Pháp mười bốn: Muốn khiến cho người kính nhớ. Lấy tất cả hoa lá với hạt của cây Hợp Hoan Śiriṣa nghiền giã thành bột.

Lấy nước cốt Huân Lục Hương hòa làm một viên tròn lớn như viên bi dùng dao cắt phá thành hai mảnh vuông vức một mảnh viết họ tên của người một mảnh tự viết tên của mình rồi gắn hai miếng lại sao cho hai miếng cùng hướng hợp mặt với nhau Chú vào ba biến miệng nói rằng: Tôi tên là… mau trục gấp tên đó… ở phần đầu của đêm sai khiến Tham Thần truy đuổi lại bái ba lạy thì người lúc trước ấy liền đánh mất tánh đi đến không có nghi ngờ.

Pháp mười năm: Nếu tất cả người ác muốn khiến họ khuất phục khiến cho hòa giải. Trước tiên làm một Mộc Nhân người bằng cây dài một thốn 1/3 dm khiến người cây hướng mặt về bức vách ở phương Bắc Chú Sư hướng mặt về phương Đông tụng Chú một trăm hai mươi biến một ngày bỏ một vốc đất khi người cây kia bị lấp hết thì người ấy liền đi đến.

Pháp mười sáu: Muốn chặt đứt tất cả người miệng lưỡi. Tinh tâm dụng ý thì không có gì chẳng hiệu nghiệm. Viết tên người ác trên mảnh giấy bỏ phù vào gói lại để trong chéo áo thì người thấy đều vui vẻ.

Pháp mười bảy: Lấy máu của người bị chết bởi binh đao viết tên gọi của người ác lại vẽ hình người ác dùng Phù an trong miệng ngậm trong miệng thì tất cả người ác liền nương theo cái lưỡi tự đưa vào dạ dày kết dính dưới cùng bị đâm giã tùy ý đâm giã trong ba ngày thì người ác tự cột trói chẳng ngừng.

Pháp mười tám: Dùng Chu Sa hòa với rượu đắng viết tên người ác để dưới bàn chân dẫm đạp lên thì người ác chẳng nói được môi xanh nhợt người nhìn thấy mặt liền mắng chửi… lấy Phù bỏ đi thì mới ngưng dứt.

Pháp mười chín: Nếu truy bắt quỷ thần. Để Phù trước chỗ ngồi dùng vật hợp lại thì quỷ liền đến. Nếu sai khiến đi liền đi.

Pháp hai mươi: Truy bắt hai mươi tám Bộ Chúng Lạc Quỷ. Viết Phù hợp lại Chú ba lần nghiến răng chín lần liền đi đến.

Pháp hai mươi mốt: nếu truy bắt Khởi Phương Quỷ. Viết Phù an bên dưới vật Chú ba lần liền đi đến.

Pháp hai mươi hai: Nếu truy bắt Phù Du Quỷ. Viết Phù hợp lại liền đi đến.

Pháp hai mươi ba: Nếu triệu tất cả quỷ thần Vương trong Diêm Phù Đề. Dùng ba chén chứa đầy sữa hai chén cơm hai chén bánh đốt Huân Lục Hương rồi chỉ hô gọi tên cúng tế… một lúc thì có người mặc áo xanh đi đến phút chốc thì quỷ thần Vương đều đến.

Pháp hai mươi bốn: Tập hợp tất cả cọp sói trăm thú. An Phù hợp lại thì tất cả cọp sói trùng thú tự đến tụ tập. Lấy Phù ra bỏ đi thì muông thú liền đi.

Pháp hai mươi năm: Kết Phù ấn trến cây thì tất cả chim bay đều đến tụ tập. Bỏ Phù đi thì chin chóc bay đi.

Pháp hai mươi sáu: An Phù Chú vào nước uống khiến cho người chẳng quyên được thông minh.

Pháp hai mươi bảy: Cầm Phù gặp mặt thì Quan Trưởng Giả đều ưa thích.

Pháp hai mươi tám: Muốn khiến ngời bên ngoài từ xa đi đến. Sai khiến Ma Ha Ca La đến bắt sau đó làm pháp an phù hợp lại thì người ấy chẳng hay biết liền đi đến.

Pháp hai mươi chín: Chú vào ngón trỏ của tay phải rồi chỉ thì người nữ được chỉ vào chẳng nhớ người nam nữa.

Pháp ba mươi: Chú vào cây đao rồi chỉ vào cái thuyền phân bố con người như thân bên ngoài tức thuyền liền dừng lại.

Pháp ba mươi mốt: dùng cây đao chỉ vào cây cối Chú vào một ngàn biến thì cái cây tự nhổ bứt ra.

Pháp ba mươi hai: Chú vào cây đao hai mươi mốt biến chỉ vào nhọt ác ngay bên dưới liền khỏi.

Hoặc bốn mươi chín biến một trăm lẻ tám biến ắt diệt ngay.

Pháp ba mươi ba: Chú vào cây đao hai mươi mốt biến chỉ chim bay thì lông rụng xuống như mưa.

Pháp ba mươi bốn: Chú vào cây đao hai mươi mốt biến. Muốn đi xa bốn phương cầm cây đao theo tức không có chướng ngại.

Pháp ba mươi năm: Muốn vào rừng núi. Chú vào cây đao hai mươi mốt biến rồi đi vào thì không có nạn thú ác.

Pháp ba mươi sáu: Nếu có bệnh sốt rét ác bệnh quỷ hoặc hai ngày phát bệnh một lần hoặc ba ngày phát bệnh một lần. Đều giận dữ Chú liền khỏi. Nếu chẳng ngưng dứt Chú ba biến tức quỷ tự nói rồi đi liền được trừ khỏi.

Pháp ba mươi bảy: Nếu bị bò cạp cắn. Chú vào gừng tươi một biến đâm giã rồi bôi vào liền khỏi.

Pháp ba mươi tám: Nếu bị ong chích Chú vào cây đao ba biến nghĩ định liền khỏi.

Pháp ba mươi chín: Nếu bị rắn cắn Chú vào nước nóng pha muối rồi tắm gội liền khỏi.

Pháp bốn mươi: Nếu bị Yểm Cổ một loại vu thuật gây tai học cho con người. Chú hai mươi mốt biến dùng cỏ tranh phất phủi vãi tung ra liền khỏi.

Pháp bốn mươi mốt: Nếu quỷ thần khó giáng phục. Lấy lớp da trên đầu gối của con lừa bỏ vào trong lờ hương thiêu đốt xông dưới lỗ mũi tức quỷ thần chịu phục tự ngã xuống tự nói. Hoặc chửi mắng chẳng ngừng. Chú vào hạt cải trắng thiêu đốt kèm đánh lên trên mặt tức quỷ thần cúi xuống hộc máu.

Pháp bốn mươi hai: Nếu Rồng làm mưa gió ác. Chú vào cây đao hai mươi mốt biến chỉ trong mây tức máu tuôn xuống hoặc ánh sáng tỏa ra.

Pháp bốn mươi ba: Nếu người nói năng chậm chạp. Mỗi ngày mồng một chỉ dùng cây đao đâm chích vào miệng không quá ba lần liền khỏi.

Pháp bốn mươi bốn: Nếu bị nhện cắn. Hô gọi Giáng Oán Vương mổ liền khỏi.

Pháp bốn mươi năm: Nếu bị bệnh thời khí. Chú vào cây đao đâm chích trên miệng kèm Chú vào nước phun lên liền khỏi.

Pháp bốn mươi sáu: Nếu Chú vào người bị bệnh Quỷ. Biết tên họ cầm cây đao đi đến tức độtg ngột đánh ba lần liền khỏi. Thu bắt giao cho ngục của Nam Đẩu sau bảy ngày thì thả ra.

Pháp bốn mươi bảy: Nếu người tranh giành lẫn nhau. Chú vào liền hòa giải.

Pháp bốn mươi tám: Chú vào con rắn ba biến tức chẳng gây hại cho người lấy bỏ trong nội y áo lót bên trong cũng được thả ra liền đi.

Pháp bốn mươi chín: Hoặc gặp thú ác. Giận dữ quát tháo tức thú ác bị mất tánh mà ngã xuống. Người chỉ tụng Chú được thần lực thì vào nước chẳng bị cuốn chìm vào lửa chẳng bị thiêu đốt vào cửa Quan chẳng bị giận dữ vào hang cọp chẳng bị thương tích.

Pháp năm mươi: Nếu Chú trong tháng mùa Hạ thì hay khiến cho tuyết rơi xuống.

Pháp năm mươi mốt: Nếu Chú trong tháng mùa Đông thì hay khiến cho mưa tuôn xuống.

Pháp năm mươi hai: Chú thì Tinh Thần các ngôi sao đều bị diệt tan.

Pháp năm mươi ba: Chú thì Mặt Trời mặt trăng đều không có ánh sáng.

Pháp năm mươi bốn: Chú thì trộm cướp xa gần tự cột trói đi đến.

Pháp năm mươi năm: Chú vào con bò khiến nó chẳng đi được cũng chẳng ăn cỏ uống nước được một tháng nhưng chẳng chết.

Pháp năm mươi sáu: Chú vào nước được thành sữa nóng.

Pháp năm mươi bảy: Hoặc ở trên đảnh núi cao tụng một trăm lẻ tám biến tức có quỷ ác Dược Xoa đi đến. Người Trì Chú đừng nhìn xem trong phút chốc có hằng hà sa quỷ vây quanh thì người Trì Chú đừng nói chuyện phút chốc không có một ai. Sau đó Hành Giả chú vào cây đao thì hay dời núi ngăn sông tồi phục ngoại đạo tất cả Thần không thể chống đối được. Quỷ nhìn thấy Hành Giả như ta A Tra Bạc Câu không có khác.

Pháp năm mươi tám: Chú vào cây Thạch Lựu một biến dùng bàn tay đè lên quỷ nhín thấy là cây đao.

Pháp năm mươi chín: Chú vào Tà Tư chẳng kể nhiều ít dùng cây đao vạch lên đất vây quanh ắt bị cột trói khóc lóc nói.

Pháp sáu mươi: Chú vào người có bệnh khó khỏi. Do nghiệp nặng của thân đời trước liền thỉnh Quán Thế Âm Bồ Tát cứu độ. Vẽ Quán Thế Âm Bồ Tát xong dùng diệt tội ấn mà ấn.

Pháp sáu mươi mốt: Muốn trị bệnh Ma nên xưng Bất Không Quyến Sách Bồ Tát ba tiếng thì bệnh được trừ khỏi.

Pháp sáu mươi hai: Muốn ở nhà của người khác trị bệnh. Nên truy hỏi Táo Quân tức biết tốt xấu. Nếu chẳng thật thì sai khiến Nam Đẩu Quân đánh cấm thì người nữ kia liền báo thiện ác.

Phàm người bệnh có niềm tin thì chữa trị nếu là Nhất Xiển Đề Icchantika: kẻ chặt đứt căn lành chẳng đủ niềm tin chẳng tin thì chẳng nên chữa trị rất khó khỏi bệnh.

Pháp sáu mươi ba: Chỉ Chú vào nước phun thì tất cả người bệnh cũng được trừ khỏi.

Pháp sáu mươi bốn: Nếu đàn bà không có con. Khiến tắm gội sạch sẽ chí tâm quy mạng tam Bảo dùng một hạt Bạch Giới Tử hạt cải trắng Chú vào 108 biến rồi cho nuốt vào tức có con.

Lại nếu đệ tử của ta thì ta tự hộ trì không có Phi Nhân nào được dịp thuận tiện gây hại ở trong tất cả quỷ thần tác tâm cung kính trong tất cả Chú Sư tác tâm anh em luôn hành bình đẳng đừng khởi tâm cao ngạo ngã mạn. Lại ở trong tất cả quỷ thần tác tưởng là thiện tri thức.

Pháp sáu mươi năm: Nếu người nữ sanh khó sắp bị chết. Chú vào sợi dây đội trên đảnh đầu liền sanh được.

Pháp sáu mươi sáu: Nếu bò ngựa bị bệnh dịch. Chú vào đất một trăm lẻ tám biến rải tán trên thân liền khỏi.

Pháp sáu mươi bảy: Nếu bị bệnh Lậu. Chú vào đồng sắt một trăm lẻ tám biến chưng nấu lấy nước cốt cho uống liền khỏi.

Pháp sáu mươi tám: Nếu muốn cột trói người. Chẳng cần dùng Ấn chỉ chí tâm tụng Chú liền được. Khiến cột trói liền cột trói khiến đánh liền đánh thuận theo tâm người vậy.

Lại nữa nay ta vì Đức Phật hoằng dương giáo hóa cho nên biến thân của Bồ Tát làm thân sân nộ giáng phục. Ta đích thân ở trước mặt Đức Phật tự nói công năng. Đức Phật nhận Hành Dụng Thần Ấn của ta. Ngay ngày ấy đồng thời có Đại Nộ Kim Cang nói Tồi Toái Quỷ Chú Quán Thế Âm Bồ Tát nói Quyến Sách Chú bốn Đại Thiên Vương nói Tứ Phương diệt Quỷ Chú Ngũ Đạo.

Lại nữa ta ở trong tất cả quỷ thần Dược Xoa La Sát Trời Rồng A Tu La Kim Cang làm Nguyên Soái là Tổng Quản của chư Thần. Sau khi Phật Pháp chia ngọn mạt thời hộ niệm chúng sanh đều khiến cho an ổn.

Ta xem chúng sanh trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới giống như con một chẳng khiến cho quỷ thần ác bạo loạn chúng sanh. Nếu có quỷ thần gây não loạn Chú Sư thì ta chỉ huy trăm vạn Quỷ Vương La Sát Quân Chúng trăm ức Dược Xoa, Trời, Rồng, A Tu La, Tám Bộ Chúng, Quỷ Thần Tướng Quân khiến bốn Đại Vương Thiên đều thống lãnh trăm ức quỷ thần trước sau vây quanh đi qua chỗ nào thì núi sông chấn động trăm quỷ tự chạy trốn.

Lúc đó ta bảo Trời Rồng tám Bộ Quỷ Thần tuôn mưa lớn dấy mây gió lớn tràn đầy Trời Đất.

Ngay lúc ta giận dữ thời mặt trời, mặt trăng không có sắc sáng. Sấm chớp sét đánh trăm loài cỏ tự chết tất cả chúng sanh chạy trốn vào hang hốc. Sau đó khiến chày Kim Cang đập vỡ đầu của quỷ thần ác nát như bụi nhỏ làm cho các quỷ gây suy hại đều sợ hãi.

Tỳ Na Dạ Ca Vināyaka gây não hại ấy ta khiến Kim Cang Tạng Vương thu lục cũng chẳng sai sử chẳng nên sợ Tỳ Na Dạ Ca, Quỷ Thần Vương, La Sát, Dạ Xoa, Cưu Bàn Trà, Bố Đan Na, Tỳ Xá Xà Ma Đăng Già với quyến thược của Ma khác. Vua ấy đều là doanh tòng của ta cuối cùng cũng chẳng đến gây sợ hãi.

Lại nếu muốn trừ Tà. Trước tiên hội một tòa thức ăn uống rồi bảo rằng: Các ngươi hãy đi gấp như gió đến ở cảnh bên ngoài. Nếu chẳng đi ắt có thể trừ khử.

Lại nếu cầu thuốc Tiên. Vào núi sâu nơi không có người ngồi ở dưới cái cây lớn chẳng đứng dậy ba ngày chẳng ăn tức có Tiên Nhân đến dâng thuốc. Uống vào thì sống ngang bằng với Trời đất vậy.

Lại nếu gặp nước biển lớn chẳng vượt qua được. Chú bảy biến búng ngón tay ba lần tức Long Vương đến nghênh đón đưa qua.

Lại nếu người chẳng trị bệnh chỉ tụng Chú chẳng biết nhiều ít ngàn vạn biến chỉ phát tâm tốt lành. Ở trong tất cả quỷ thần tác tưởng là đại thiện tri thức đối với hữu tình tác tưởng từ bi bình đẳng. Người ấy khi mạng chung thì chẳng trải qua địa ngục có các Bồ Tát người Trời cầm tay dắt đi.

Quy mạng mười phương Đẳng Chánh Giác

Diệu Pháp tối thắng chúng Bồ Đề

Tịnh nghiệp thân miệng ý của con

Chí tâm chân thành chắp tay lễ

Nguyện xin Chư Phật Pháp Tăng Chúng

Từ Bi thương xót nhiếp hộ con

Kính lễ Nguyên Soái Đại Tướng Quân

Đây là thân Tỳ Lô Giá Na Vairocana

Cùng với Thích Ca Chư Phật biến

Quán Âm hóa vô tận vô biên

Hoặc hiện hình Bồ Tát vui vẻ

Hai tay với các tướng Nguyện Ấn

Hoặc bày thân Kim Cang Phẫn Nộ

Bốn tay cầm khí trượng giáng Ma

Bản Thể Nguyên Soái là Như Lai

Vì cứu thế gian hiện mọi loại

Bốn mặt tám tay răng bén nhọn

Cầm nắm khí trượng tùy loại hộ

Nếu Quốc Vương Quy Y Nguyên Soái

Liền lãnh tất cả tướng quân chúng

Thủ hộ bên trong vương quốc ấy

Tiêu phục Lân Vương vua láng giềng việc oán địch

Tồi diệt nghịch thần bề tôi phản nghịch tự điều phục

Trong nước không có khổ bệnh dịch

Tất cả thế gian loài hữu tình

Niệm trì Thần Chú xưng danh hiệu

Tịnh trừ chướng ngại sanh trong ngoài

Ắt cho nguyện thế gian xuất thế

Người muốn tức tai liền tức tai ngưng dứt tai nạn

Người cầu vinh ái cho vinh ái

Giáng phục tất cả nghiệp nhóm ác

Mỗi mỗi không gì chẳng thành tựu

Nếu nghe tên A Tra Bạc Câu

Trong miệng một lần tụng khen ngợi

Thường sẽ ủng hộ không các nạn

Của báu thế gian đều tròn đủ

A Tra Bạc Câu lãnh quyến thuộc

Tồi Toái Thanh Diện Kim Cang Vương

Tô Tất Địa Vương Quân Trà Lợi

Mật Tích Lực Sĩ Ma Đăng Già

Phạm Thích bốn Vương Tự Tại Thiên

Hai mươi tám Bộ Dược Xoa Vương

Bốn mươi hai Bộ La Sát Sa

Càn Thát Long Vương Cưu Bàn Trà

Thiên Ma quỷ thần cùng sai khiến

Chúng sanh Diêm Phù cũng như vậy

Người hay quy y được thắng lợi

Kẻ sanh chê nghịch bị họa nặng

Thế nên tất cả người thế gian

Đều nên quy y Đại Nguyên Soái.

Tiếp theo kết Thỉnh Thập Phương Chư Phật Ấn: Hai tay cài ngược hai ngón vô danh ở trong lòng bàn tay dựng thẳng hai ngón giữa sao cho đầu ngón dựa nhau co hai trón trỏ đè lưng lóng trên của ngón giữa kèm dựng hai ngón cái đè vịn bên cạnh lóng giữa đưa ngón trỏ qua lại bảy lần tức tất cả Phật đi đến.

Chú là: Úm xà da bà hề toa ha.

OṂ JAYA VAHE SVĀHĀ.

Tiếp kết Quán Thế Âm Đẳng Chư Đại Bồ Tát Ấn: Hai cổ tay dính nhau kèm dính hai ngón cái hai ngón út cũng vậy các ngón còn lại hơi mở co như khều lấy hoa sen đưa ngón trỏ lên xuống qua lại.

Chú là: Úm tỳ thị để tỳ già lam mê đế lô ca tỳ xà duệ toa ha sáu.

OṂ VIŚITI VIGALAṂ MAITE RUKA VIJAYE SVĀHĀ.

Tiếp kết Thập Tứ Bộ Kim Cang Ấn: Dựng nghiêng hai cổ tay kèm dựng hai ngón cái đều vịn trên móng hai ngón út dựng cạnh hai ngón vô danh cùng dựa đầu nhau hai ngón giữa đều dựng thẳng hướng đầu ngón về phía trước không dính nhau đưa hai ngón trỏ qua lại Chú là:

Úm bạt chiết la chiên nê hề toa ha.

OṂ VAJRA CAṆḌI HE SVĀHĀ.

Tiếp kết tam Thập tam Thiên Thần Ấn: Hai ngón trỏ hơi cách lóng thứ hai của ngón giữa khoảng nửa phân đưa ngón cái qua lại.

Chú là: Úm thước đổ lỗ bả la ma đà nễ duệ toa ha.

OṂ ŚATRŪ PRAMADHANIYE SVĀHĀ.

Tiếp kết Nhị Thập Bát Bộ Tinh Tú Thiên Ấn: tay trái kèm ngửa ngón giữa ngón vô danh ngón giữa phải để ngay trên vạch dưới của ngón vô danh trái ngón vô danh phải cũng che úp bên trên vạch dưới của ngón giữa trái tướng chung xếp bày như sợi dây. Ngón út ngón trỏ ngón cái đều dựng đứng cùng dựa nhau đưa ngón cái qua lại.

Chú là: Úm nẵng khất xoa đa la đề bà đa duệ toa ha.

OṂ NAKṢATRA DEVATAYE SVĀHĀ

Tiếp kết Đông Phương Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương Lãnh Càn Thát Bà Quân Chúng Ấn: Nghiêng tay trái từ ngón giữa trở xuống ba ngón nắm quyền. Lại co ngón trỏ hơi cong ở vạch lóng dưới của ngón giữa đưa ngón cái qua lại.

Chú là: Úm địa lợi để hạt la sắt tra dược xoa nhân đà la đế bà đa duệ sáu toa ha.

OṂ DHṚTI RAṢṬA.

DHṚTA RĀṢṬRA INDRA DHIPATAYE.

ADHIPATAYE SVĀHĀ.

Tiếp kết Nam Phương Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương Lãnh Cưu Bàn Trà Chúng Ấn: Nghiêng cổ tay trái để cạnh cổ tay phải dính trên gốc cổ tay trái hai lòng bàn tay chung lưng hai ngón vô danh hai ngón giữa cùng móc duỗi nhau như sợi dây hai ngón út hai ngón trỏ hai ngón cái đều hơi cong đưa ngón trỏ qua lại.

Chú là: Úm tỳ lỗ đà ca da ba đa duệ toa ha.

OṂ DHIRUḌHAKAYA.

VIRŪḌHAKĀYA PATAYE SVĀHĀ.

Tiếp kết Tây Phương Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương Lãnh Long Quân.

***