Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bảo Vân

PHẬT THUYẾT KINH BẢO VÂN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Mạn Đà La Tiên, Đời Lương
 

PHẦN MƯỜI NĂM
 

Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ Tát chứng đắc pháp thân của Như Lai.

Bồ Tát Trừ Cái Chướng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Khi nào Bồ Tát đạt được pháp thân của Như Lai?

Phật đáp: thiện nam! Hàng Bồ Tát trụ Địa thứ nhất được thân bình đẳng.

Vì sao?

Vì Bồ Tát trụ Địa thứ nhất trừ hết thảy thân ác, cùng các Bồ Tát đồng một danh hiệu là thân bình đẳng.

Bồ Tát trụ Địa thứ hai được thân thanh tịnh, nhờ trì giới thanh tịnh.

Bồ Tát trụ Địa thứ ba được thân vô tận, nhờ trừ sạch sân hận, não hại.

Bồ Tát trụ Địa thứ tư được thân từ lâu tích tụ tất cả pháp thiện, nhờ tu tập tất cả pháp Phật.

Bồ Tát trụ Địa thứ năm được pháp thân, nhờ lực nơi thiền định nhận biết tất cả pháp Phật.

Bồ Tát trụ Địa thứ sáu được thân chẳng phải là chỗ có thể nhận biết, có thể trù tính xét đoán của thế gian, do thân này hết sức sâu xa.

Bồ Tát trụ Địa thứ bảy được thân chẳng thể nghĩ bàn, do khéo dùng phương tiện.

Bồ Tát trụ Địa thứ tám được thân tịch diệt, do khéo trừ hết mọi hý luận, dứt tận hết thảy phiền não.

Bồ Tát trụ Địa thứ chín được thân hư không, được thân vô ngại, do hiện bày khắp hư không.

Bồ Tát trụ Địa thứ mười được thân diệu trí.

Vì sao?

Vì nhận biết khắp hết thảy các pháp nơi các Địa của Bồ Tát.

Bồ Tát Trừ Cái Chướng bạch Phật: Kính bạch Thế Tôn! Pháp thân của Bồ Tát và pháp thân của Như Lai có sai khác chăng?

Phật đáp: Thân thì không sai biệt nhưng về công đức thì có khác.

Bồ Tát Trừ Cái Chướng bạch Phật: Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là thân không sai biệt mà công đức thì có sai khác?

Phật đáp: Tên của thân không có khác.

Vì sao?

Vì thân, khẩu cùng đồng một tướng, nhưng tướng công đức thì có sai khác.

Bồ Tát Trừ Cái Chướng bạch Phật: Vì sao trong cùng một thân mà thấy tướng công đức có khác?

Phật đáp: thiện nam! Nay ta vì ông mà nói ví dụ để giải thích nghĩa ấy. Ví như ngọc ma ni đều cùng danh từ là ma ni. Ngọc ấy tên tuy là một, nhưng nếu được mài dũa kỹ lưỡng thì ánh sáng của nó hiển hiện, khiến tâm ý ưa thích.

Ví như thân của Như Lai, nếu không được tu luyện kỹ lưỡng thì cũng giống như thân của Bồ Tát. Vì thân của Như Lai cũng là ngọc báu ma ni và thân của Bồ Tát cũng là ngọc báu ma ni, không khác. Nhưng sắc tướng của ma ni báu sáng tỏa nơi Như Lai và của Bồ Tát có khác.

Vì sao?

Vì thân ma ni báu của Như Lai thì vô lượng, trùm khắp cõi chúng sinh, tràn đầy cõi hư không, thanh tịnh, lìa hết mọi thứ trần cấu. Thân ma ni báu của Bồ Tát thì có giới hạn, chẳng thể đầy khắp cõi hư không.

Vì sao?

Vì còn cấu uế chướng ngại.

Thiện nam! Ví như mặt trăng từ đầu tháng cho đến ngày mười lăm gọi là trăng tròn đầy, sau ngày thứ mười lăm cũng gọi là trăng, cho đến cuối tháng cũng gọi là trăng.

Danh từ trăng tuy đồng nhưng ánh sáng thì chẳng đồng, vì ánh trăng ngày thứ mười lăm sáng rỡ, bản chất của nó xưa nay là như vậy. Thân của Như Lai và thân của Bồ Tát tuy cùng danh từ thân như danh từ mặt trăng, cùng đồng như nhau nhưng ánh sáng chiếu diệu của Bồ Tát và của Như Lai thì lại không đồng.

Ánh sáng chiếu diệu nơi thân Bồ Tát không bằng ánh sáng nơi thân Như Lai chiếu diệu một cách rực rỡ. Ví như ánh sáng của trăng cuối tháng, trăng giữa tháng và trăng đầu tháng, tướng ánh sáng của chúng không giống nhau.

Thiện nam! Do vậy, thân Như Lai và thân Bồ Tát, hai thân này tuy đồng nhưng công đức có khác.

Này thiện nam! Bồ Tát lại có mười pháp gọi là thân Kim Cang bất hoại.

Đó là:

1. Tham dục, sân hận, ngu si chẳng thể hủy hoại.

2. Phiền não, kiêu mạn, chấp ngã, tự thị, thấy biết điên đảo chẳng thể hủy hoại.

3. Tám pháp thế gian chẳng thể hủy hoại.

4. Cõi ác chẳng thể hủy hoại.

5. Tất cả khổ chẳng thể hủy hoại.

6. Sinh, già, bệnh, chết, ưu bi, khổ não chẳng thể hủy hoại.

7. Hết thảy ngoại đạo, dị kiến chẳng thể phá hoại.

8. Hết thảy thiên ma cùng quyến thuộc của ma chẳng thể phá hoại.

9. Chẳng bị hoại do hết thảy hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật.

10. Tất cả cõi dục chẳng thể hủy hoại.

Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ Tát đạt thân Kim Cang bất hoại.

Này thiện nam! Bồ Tát lại có mười pháp gọi là đại thương chủ, đó là:

1. Hay khiến thương nhân thuận theo lời dạy.

2. Hay khiến thương nhân cung kính cúng dường.

3. Hay làm người dẫn đường, không sợ các nạn.

4. Hay làm nơi nương tựa cho mọi người.

5. Có khả năng làm cho người nương tựa.

6. Thường được sự sống.

7. Tư lương dồi dào.

8. Châu báu vô số.

9. Tâm không dừng nghỉ, cho là đủ.

10. Thường làm người đi đầu, đến được đại thành nhất thiết chủng trí.

Thiện nam! Thế nào gọi là Bồ Tát hay khiến thương nhân thuận theo lời dạy?

Ví như thương chủ khéo dẫn đường, hoặc dạy bảo thương nhân đều thuận theo. Bồ Tát cũng vậy, khéo hóa độ chúng sinh, có khả năng làm cho tất cả đều thuận theo mình.

Ví như thương chủ được các thương nhân cung kính cúng dường. Bồ Tát thương chủ cũng lại như vậy, được hàng hữu học, vô học, các chúng Trời, Người, Rồng, Quỷ, Thần, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Nhân và Phi Nhân… đều đến cung kính cúng dường.

Ví như ở chỗ đồng vắng có nạn cướp giật, thương chủ có khả năng đưa chúng bạn vượt qua an ổn. Bồ Tát thương chủ cũng lại như vậy, có khả năng đưa mọi người vượt qua giặc phiền não nơi đồng hoang sinh tử, đạt được an ổn.

Ví như thương chủ có khả năng đưa mọi người ra khỏi đồng hoang, cứu sống được mạng họ. Bồ Tát cũng lại như vậy, dẫn dắt các ngoại đạo Bát La Bà, Thực Ni Càn Đà… thoát khỏi đồng hoang sinh tử, cứu được mạng sống của họ.

Hoặc có những kẻ ưa thích nơi sinh tử như các hàng Vua, đại thần, quan viên cùng tất cả chúng sinh… đều nhờ nương vào Bồ Tát thương chủ mà được cứu sống trọn vẹn.

Như đại thương chủ khéo phòng bị hành trang, châu báu cần dùng, có khả năng dẫn chúng nhân vượt qua đường hiểm được an ổn, thẳng đến đại thành. Bồ Tát thương chủ cũng lại như vậy, muốn cùng chúng bạn vượt qua đồng hoang sinh tử hiểm nạn để đến thành giác ngộ của Phật thì phải tu thiền định giải thoát, tự trang nghiêm công đức đầy đủ.

Bồ Tát thương chủ muốn đến đại thành nhất thiết chủng trí phải hành trì đủ hết thảy Pháp Phật, công đức châu báu.

Ví như thương chủ gồm chứa các châu báu không có chán đủ. Bồ Tát cũng vậy, gồm chứa các pháp tài quý báu không có chán đủ.

Ví như thương chủ thông tuệ tối thắng, tài sản vô số là hàng cự phú, khéo hướng dẫn các thương nhân, nói điều gì ra chúng đều phụng hành. Bồ Tát thương chủ cũng lại như vậy, vì chúng sinh mà làm người dẫn đầu, công đức vô lượng, đối với pháp được tự tại, lời nói không hai.

Ví như thương chủ có khả năng giỏi dẫn dắt chúng thương nhân vượt qua đường hiểm, đến được đại thành. Bồ Tát thương chủ cũng lại như vậy, dẫn dắt các chúng sinh vượt hiểm nạn sinh tử, đến được đại thành chủng trí Niết Bàn.

Thiện nam! Đủ mười việc này gọi Bồ Tát là bậc đại thương chủ.

Này thiện nam! Bồ Tát lại có mười pháp gọi là thông hiểu về đạo, đó là:

1. Hiểu thông đạo bình đẳng.

2. Hiểu thông xứ hiểm ác.

3. Hiểu thông đạo an ổn.

4. Hiểu thông xứ không an ổn.

5. Hiểu thông các mối đạo.

6. Hiểu thông các xứ đạo.

7. Hiểu thông xứ sở dừng trụ.

8. Hiểu thông tướng đạo.

9. Hiểu thông đạo chánh tà.

10. Hiểu thông đạo xuất yếu.

Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ Tát khéo biết rõ về đạo.

Này thiện nam! Bồ Tát lại có mười pháp biết đạo không điên đảo.

Đó là:

1. Với người cần được độ bằng đạo đại thừa, Bồ Tát liền chỉ dẫn đạo đại thừa, không chỉ đạo Thanh Văn.

2. Người cần được độ bằng đạo Thanh Văn, Bồ Tát liền chỉ đạo Thanh Văn, không chỉ đạo Đại Thừa.

3. Người cần được độ bằng đạo nhất thiết chủng trí, Bồ Tát liền chỉ đạo nhất thiết chủng trí, không chỉ đạo Thanh Văn.

4. Người cần được độ bằng đạo Duyên Giác, Bồ Tát liền chỉ đạo Duyên Giác, không chỉ đạo nhất thiết chủng trí.

5. Vì người chấp ngã kiến, Bồ Tát vì họ mà nói pháp không, vô ngã.

6. Người không chấp ngã kiến, Bồ Tát vì họ mà giảng pháp khổ, không, vô thường, vô ngã.

7. Vì người chấp nhị biên, Bồ Tát vì họ mà nói giảng pháp trung đạo.

8. Người chấp trung đạo, Bồ Tát nên vì họ mà giảng nói về nhị biên.

9. Vì kẻ thất tâm, cuồng loạn, Bồ Tát vì họ mà giảng nói về pháp Sa Ma Tha chỉ và Tỳ Ba Sa Na Quán.

10. Vì kẻ chấp tà đạo, Bồ Tát liền nói chánh đạo khiến lìa bỏ các loại gai gốc kết sử.

Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ Tát biết đạo không điên đảo.

Này thiện nam! Bồ Tát lại có mười pháp gọi là luôn ở nơi thiền định.

Đó là:

1. Quán thân niệm xứ của thân.

2. Quán thọ niệm xứ của thọ.

3. Quán tâm niệm xứ của tâm.

4. Quán pháp niệm xứ của pháp.

5. Ở A Lan Nhã thâu giữ tâm hành trì.

6. Quán năm dục thâu giữ tâm hành trì.

7. Thâu giữ tâm hành trì ở những nơi như: Thôn xóm, doanh trại, thành ấp, làng mạc.

8. Thâu giữ tâm hành trì đối với danh tiếng, lợi dưỡng.

9. Thâu giữ tâm hành trì đối với giới cấm của Như Lai chế định.

10. Thâu giữ tâm hành trì đối với các phiền não, tâm sân hận và tâm tà, nịnh.

Thâu giữ tâm hành trì, quán thân niệm xứ như thế nào?

Bồ Tát dùng trí tuệ chân chánh tuyển chọn, loại bỏ các điều ác bất thiện.

từ chân lên đỉnh đầu, cho đến màng não, Bồ Tát quan sát các phần đều vô ngã và vô ngã sở, từng sát na sinh diệt liên tục, là pháp tan hoại, là chỗ gân mạch ràng buộc, hôi thối đáng ghét, thuần là sự tích tập các sắc xấu ác, Bồ Tát nên quan sát như vậy: Quán tưởng của ngã sở, tưởng của thân hoạnh sinh, quán rõ nhân duyên của thân tướng như vậy, hình trạng như vậy thì tâm được tự tại.

Quán thọ niệm xứ như thế nào?

Bồ Tát nghĩ nhớ: Quan sát hết thảy các thọ đều là khổ. Kẻ phàm phu điên đảo sinh tưởng là vui. Kẻ ngu si vô trí không phân biệt khổ vui. Bậc Hiền Thánh đều quán các thọ là khổ, siêng tu phương tiện đoạn trừ khổ ấy, cũng dạy chúng sinh quán thọ như vậy, đoạn xả các thọ, không yêu, không ghét.

Thế nào là quán tâm niệm xứ của tâm?

Tâm theo pháp chỉ, quán. Vô thường mà tưởng là thường, khổ mà tưởng là vui, vô ngã mà tưởng là ngã, bất tịnh mà tưởng là tịnh. Tâm như khỉ vượn, như gió lay động, niệm niệm không dừng, thay đổi nhanh chóng, là gốc rễ của kết sử, là nguồn gốc của cõi ác, là ông chủ của phiền não thường sinh dua nịnh, tà vạy, cũng là nhân duyên của tham dục, sân hận, ngu si.

Tâm là tông chủ của tất cả các pháp, là ông thợ, là kẻ dẫn đường đi trước. Tâm từ nhân duyên khởi, biết tất cả các pháp. Tâm như họa sư, vẽ hết thảy hình tượng mà tâm không biết. Các nghiệp thiện ác đều do tâm tạo. Tâm như vòng lửa xoay tròn như sự tuần hoàn.

Tâm như lửa dữ thiêu củi ba cõi. Tâm có thể sinh khởi các vật giống như đại thủy. Người quan sát tâm nên biết tướng của tâm là gốc của hoạn nạn lớn. Tâm này chẳng khiến được tự tại. Nếu ai đối với tâm ấy mà được tự tại thì đối với pháp cũng được tự tại.

***