Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh Bảo Vũ
PHẬT THUYẾT KINH BẢO VŨ
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Đạt Ma Lưu Chi, Đời Đường
PHẦN HAI MƯƠI MỐT
Này thiện nam! Sao gọi là Bồ Tát thâu nhận hữu tình cho đến xa lìa tưởng về chấp ngã mà hành hạnh khất thực?
Bồ Tát thấy tất cả hữu tình chịu nhiều khổ não, tuy thành thục chút ít căn lành, nhưng căn lành đó tạm thời, chẳng phải miên viễn, vì muốn làm lợi ích cho những hữu tình như thế mà Bồ Tát hành hạnh khất thực. Khi Bồ Tát vào nơi thành ấp, xóm làng, trụ vào chánh niệm đầy đủ oai nghi, các căn vắng lặng, không để dao động, buông lung.
Bồ Tát thứ lớp khất thực nên chẳng bao giờ bỏ qua những nhà nghèo khổ mà vào nhà phú quý: Đó là nhà Bà La Môn, Sát Đế Lợi, nhà Cư Sĩ lớn. Khi Bồ Tát khất thực lần lượt từ nhà này đến nhà khác cho đến khi xong việc chẳng hề trái phạm, chỉ trừ nơi ác không nên khất thực, đó là nhà có chó dữ, nhà trâu mới sinh, nhà nuôi những loài thú dữ.
Này thiện nam! Như nơi người nữ, đồng nam, đồng nữ, nơi khởi lên phiền não, nơi cơ hiềm, nơi cac ngoại đạo, những nơi như vậy đều nên bỏ đi. Đối với các hữu tình ấy Bồ Tát không còn yêu ghét. Khi Bồ Tát thứ lớp khất thực không sinh tâm chán mệt, lìa bỏ. Do không mỏi mệt nhàm chán mà sinh tri túc, với thức ăn ngon hay dở Bồ Tát đều tùy hỷ mà thọ nhận.
Nếu được thức ăn rồi, Bồ Tát trở về trú xứ, thâu bát đa la và cầm y phục đến trước tượng Như Lai, hoặc trước Chế Đa, hoặc trước Tốt Đổ Ba tôn kính, cúng dường, tán thán, rồi đem thức nhận được chia làm bốn phần: Một phần cúng cho vị đồng phạm hạnh, một phần bố thí cho người bần cùng, một phần bố thí cho hữu tình nơi nẻo ác, còn mình ăn một phần.
Tuy Bồ Tát ăn nhưng đối với việc ăn không tham, không nhiễm cũng không ưa đắm, chỉ vì mạng sống mà thọ thực để cho thân thể khỏi gầy yếu, cũng không để cho nặng nề.
Vì sao?
Nếu thân gầy yếu thì phế bỏ sự tu thiện phẩm, còn nếu thân béo phì thì tăng thêm thùy miên. Bồ Tát thọ thực rồi hay làm cho thiện phẩm tăng trưởng ngay hiện tiền.
Do chuyên cần tu tập không có biếng trễ, cũng không có lười biếng nên được tư lương bồ đề viên mãn. Do thiện phẩm mà có thể thành thục pháp bồ đề phần, xa lìa ngã chấp. Do vô ngã nên có thể xả bỏ nhục thân mà bố thí cho hữu tình.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì có khả năng hành hạnh khất thực.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được ngồi một mình.
Những gì là mười?
1. Ngồi nơi Đạo Tràng bồ đề, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
2. Chứng tĩnh lự xuất thế, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
3. Được bát nhã xuất thế, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
4. Được trí xuất thế, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
5. Chứng được tánh không, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
6. Chứng các pháp như thật, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
7. Chứng đạo Chánh Giác, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
8. Chứng được thật tế, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
9. Chứng về chân như, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động.
10. Đắc nhất thiết trí, các ma đến khủng bố nhưng một mình chẳng lay động. Nói ngồi một mình là ngồi ở nhất thiết trí cũng gọi là pháp tòa.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này nên có khả năng được ngồi một mình.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được gọi là ngày ăn một lần.
Những gì là mười?
1. Không phóng túng tham thực.
2. Ăn không tham đắm, nghĩa là ăn rồi, đúng thời hay không đúng thời không nên ăn nữa, như sữa, dầu, đường phèn, mọi thứ mùi vị.
3. Nếu thấy người khác dùng sữa trong mọi lúc không sinh giận dữ.
4. Nếu thấy người khác dùng sữa, trong mọi lúc cũng không hiềm khích.
5. Khi Bồ Tát thực hành ăn một lần, nếu bị bệnh nặng thì nên dùng sữa…
6. Khi Bồ Tát thực hành ngày ăn một lần, nếu thân có bệnh cần dùng sữa… thì mới dùng.
7. Khi Bồ Tát thực hành ngày ăn một lần, nếu có nạn phế bỏ sự tu tập pháp thiện nên ăn bơ… thì Bồ Tát mới dùng.
8. Khi Bồ Tát thực hành ngày ăn một lần, nếu có ba nạn như trên mà ăn sữa… rồi thì không hối tiếc.
9. Khi Bồ Tát thực hành ngày ăn một lần, nếu có ba nạn nên dùng sữa… thì không nghi hoặc.
10. Khi Bồ Tát thực hành ngày ăn một lần, nếu có ba nạn cần ăn sữa… nên tưởng nghĩ như uống thuốc.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này được hạnh gọi là ngày ăn một lần.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được gọi là ở A Lan Nhã.
Những gì là mười?
1. Duy trì phạm hạnh.
2. Đối với Tùy Nại Da được thiện xảo.
3. Các căn đầy đủ.
4. Đa văn đầy đủ.
5. Giỏi thuyết pháp cốt yếu.
6. Lìa ngã sở chấp.
7. Giống như thú hoang dã.
8. Thân được trụ lâu.
9. Ở nơi vắng lặng.
10. Không nhàm chán lìa bỏ A Lan Nhã.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ Tát duy trì phạm hạnh cho đến không nhàm chán, lìa bỏ A Lan Nhã?
Này thiện nam! Bồ Tát bỏ nhà xuất gia, ở trong Tùy Nại Da ba nghiệp thanh tịnh, đầy đủ Thi La, tánh nhiều thiện xảo, ưa tập oai nghi. Ở trong những lời Phật dạy về tất cả pháp huyễn, không nhờ vào duyên khác mà chính mình có thể giải ngộ và có khả năng đắc được giáo nghĩa một cách thiện xảo.
Lại có khả năng rõ biết học xứ trì phạm, thấy người trì giới hay sinh cung kính, thấy người hủy giới liền lánh xa. Lại nữa, trong mọi lúc luôn ăn năn lỗi lầm, với những tội đã làm luôn tìm cách Sám hối không bao giờ che giấu.
Lại có thể biết rõ tội đã phạm có ba bậc: Nặng, vừa và thấp. Lại có thể rõ biết nghiệp ác đã tạo và thọ nhận quả dị thục với thời gian có dài, ngắn khác nhau. Bồ Tát tu hành thanh tịnh nên được các căn đầy đủ, nhãn căn không giảm, nhĩ căn không khuyết, thân phần đầy đủ, mới có thể ở nơi A Lan Nhã thanh vắng.
Một mình không bóng người không bị não loạn, không xa không gần, khất thực dễ dàng, nhiều rừng cây, hoa quả, cành lá sum suê, nước ngon thanh tịnh lấy dùng không mệt nhọc, với ngôi nhà nhỏ an ổn không có thú dữ, đường núi u tĩnh lui tới dễ dàng, nơi như vậy có thể nương tựa.
Bồ Tát nương tựa nơi ấy rồi tùy theo những điều đã tụng đã nghe, ngày đêm ba thời luôn luôn tu tập, âm thanh tụng Kinh không lớn không nhỏ, khéo thâu giữ các căn không cho thay đổi, vật thọ dụng thảy đều thanh tịnh, biết rõ tướng sai biệt của các pháp, lìa bỏ hôn trầm, tư duy giáo lý, tâm ấy chẳng động cũng chẳng ngoài duyên.
Nếu có Vua, con Vua và Sát Đế Lợi, Bà La Môn… đến nơi Bồ Tát, Bồ Tát cung kính chào hỏi khen rằng: Lành thay! Đại Vương! Chỗ ngồi đã bày sẵn mời Đại Vương an tọa. Khi nhà Vua ngồi, Bồ Tát cũng ngồi. Nếu nhà Vua không ngồi thì Bồ Tát cũng không ngồi.
Xem kỹ nhà Vua…, thấy các căn nóng nảy vội vàng, Bồ Tát nên khen: Đại Vương tài giỏi hay làm lợi ích cho đất nước, trong nước Đại Vương có nhiều Samôn trì, giới phước đức đa văn trí tuệ, như chỗ cư trú của Bà La Môn không có trộm cướp và sự xâm phạm hiếp bức của quan nhân…
Quán thấy nhà Vua… các căn vắng lặng điều phục an ổn, thì Bồ Tát nên vì nhà Vua mà diễn thuyết các pháp. Nếu nhà Vua không thích nghe thuyết nhiều pháp thì Bồ Tát nên tùy thuận mà chỉ nói pháp chán lìa.
Nếu nhà Vua không muốn nghe pháp chán lìa thì nên nói Pháp Thâm sâu rộng lớn và oai đức lớn của Như Lai. Ngoài ra ở nhân gian xóm làng của Bà La Môn, Sát Đế Lợi ai có đến thì tùy nghi mà vì họ thuyết pháp cũng như vậy. Vì Bồ Tát đa văn nên có khả năng thuyết pháp khiến cho người nghe thảy đều hoan hỷ, sinh lòng tin thanh tịnh đối với Bồ Tát.
Bồ Tát đã hay thuyết pháp lại thường tu tập thiện phẩm đối trừ phiền não, nhờ sức đa văn nên không còn ngã chấp. Lại thường xa lìa ngã chấp sợ sệt, nên Bồ Tát ở A Lan Nhã không hoảng không sợ đắc vô sở úy.
Bồ Tát ở A Lan Nhã quan sát ngay hiện tiền không còn bám víu, chẳng như loài dã thú không có sự quan sát. Bồ Tát ở A Lan Nhã không có sợ sệt, không có lỗi lầm, chẳng như dã thú thường sợ trúng thương.
Bồ Tát ở A Lan Nhã vì trong xóm làng có người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ tâm tán loạn, vì thâu nhận chánh pháp, vì không còn bám víu, chẳng phải như dã thú vì hộ mạng mà xa lánh nhân gian.
Do Bồ Tát ở xa những nơi ấy nên được vắng lặng ngay hiện tiền, thấy A Lan Nhã có công đức lớn. Bồ Tát trụ ở A Lan Nhã thấy được vắng lặng, tu tập các pháp, nên không chán lìa, không từ chối A Lan Nhã. Đó gọi là Bồ Tát duy trì phạm hạnh cho đến không nhàm chán, lìa bỏ, không từ chối A Lan Nhã.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì được gọi là ở nơi A Lan Nhã.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì có thể ngồi nơi gốc cây.
Những gì là mười?
1. Không được ngồi nơi gốc cây rất gần xóm làng.
2. Không được ngồi nơi gốc cây quá xa xóm làng.
3. Không được ngồi nơi gốc cây chông gai rậm rạp.
4. Không được ngồi nơi gốc cây dây che kín và nơi ở của vượn.
5. Không được ngồi nơi gốc cây lá khô.
6. Không được ngồi nơi gốc cây có khỉ ở.
7. Không được ngồi nơi gốc cây có nhiều chim chóc.
8. Không được ngồi nơi gốc cây có nhiều thú dữ ở.
9. Không được ngồi nơi gốc cây ở gần đường đi.
10. Không được ngồi nơi gốc cây có người thô ác ở. Bồ Tát phải nên ngồi nơi gốc cây không có chướng nạn, thân được nhẹ nhàng, tâm thường vui vẻ.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì có khả năng ngồi nơi gốc cây.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì có thể ngồi nơi đất trống.
Những gì là mười?
1. Với bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông không nên ngồi ở nơi có tường vách.
2. Không nên ngồi nơi rừng cây.
3. Không được ngồi nơi chứa rơm rạ, cỏ mục.
4. Không được ngồi nơi thung lũng giữa núi.
5. Bên bờ sông cheo leo không được ngồi.
6. Không được dùng vật ngăn chận giá rét để ngồi.
7. Không được dùng vật che gió để ngồi.
8. Không được dùng vật che mưa để ngồi.
9. Không được dùng vật che nắng để ngồi.
10. Không được dùng vật hứng sương để ngồi.
Nếu các Bồ Tát ngồi nơi đất trống, thân bị các bệnh, lại không có sức thì nên vào trong Chùa và suy nghĩ: Đức Như Lai vì muốn đối trừ phiền não, nơi nào cũng nói rộng công đức của hạnh Đầu Đà. Ta nay tuy ở trong Chùa, lòng không ưa thích cũng chẳng tham đắm, chuyên cần tu tập chánh pháp để đối trừ phiền não.
Lại suy nghĩ: Ta ở trong Chùa chỉ vì thâu nhận các thí chủ, chẳng vì nuôi dưỡng bản thân, nên tưởng nghĩ như đất trống.
Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì được gọi là ngồi nơi đất trống.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được gọi là ngồi nơi nghĩa địa.
Những gì là mười?
1. Các Bồ Tát đối với trú xứ tốt đẹp hết lòng sinh chán lìa.
2. Các Bồ Tát ở trong mọi lúc thường khởi tưởng về chết.
3. Các Bồ Tát luôn luôn khởi tưởng về dư tàn.
4. Các Bồ Tát thường quán về thân, khởi tưởng về thân đỏ lên.
5. Các Bồ Tát thường quán về thân, khởi tưởng về thân xanh bầm.
6. Các Bồ Tát thường quán về thân, khởi tưởng về thân máu mủ.
7. Các Bồ Tát thường quán về thân, khởi tưởng về thân sình trướng.
8. Các Bồ Tát thường quán về thân phần, khởi tưởng về thân khô cháy.
9. Các Bồ Tát thường quán về thân, khởi tưởng về thân tan rã.
10. Các Bồ Tát thường quán về thân, khởi tưởng về từng lớp xương ăn khớp với nhau.
***