Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bảo Vũ

PHẬT THUYẾT KINH BẢO VŨ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đạt Ma Lưu Chi, Đời Đường
 

PHẦN MƯỜI BẢY
 

Phật nói: Không phải! Này thiện nam! Bát nhã như thật quán thấy pháp thân là nội chứng.

Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Trí tuệ thành tựu do nghe, thành tựu do tư duy, pháp chứng như vậy là nội chứng chăng?

Phật nói: Không phải! Hoàn toàn không phải thành tựu trí tuệ chỉ do từ nghe, từ tư duy là nội chứng đâu!

Thiện nam! Vì nhân duyên này, ta sẽ nói ví dụ cho ông: Ví như có người nào đó ở nơi hoang vắng nóng bức, người ấy từ hướng Đông đi đến hướng Tây.

Lại có một người từ hướng Tây đi đến hướng Đông, người đó nóng mệt vì khát nước bức bách, nói với người từ hướng Đông đến rằng: Tôi nay nóng mệt bị khát nước bức bách, xin chỉ đường cho tôi nơi nào có suối nước, rừng cây, ao hồ trong sạch, mát mẻ. Tôi đến đó sẽ không còn nóng bức, khát nước, mỏi mệt nữa.

Người từ hướng Đông đến nói với người từ hướng Tây sang rằng: Tôi am hiểu đường sá biết nơi có nước, tôi đã qua và từng uống nước.

Từ đây ông đi về hướng Đông cách đây không xa, lại có hai đường, bỏ đường bên trái đi theo đường bên phải, nếu thấy núi xanh thì nơi đó có rừng cây, suối trong sạch mát mẻ có thể giải trừ được khát nước và mỏi mệt. Ông có thể đến đó ắt sẽ được dứt trừ nạn nóng bức khát khổ.

Này thiện nam! Ý ông thế nào?

Người bị nóng bức khát khổ kia chỉ nghe tên nước, chỉ nghĩ đến nước liền được dứt trừ cái khổ nóng bức khát nước ấy chăng?

Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Người nóng bức khát nước kia, cần phải nội tâm chứng được nước mát mẻ sau đó mới trừ được cái khổ nóng bức khát nước.

Phật nói: Này thiện nam! Đúng vậy! Đúng vậy! Chẳng phải chỉ nghe và tư duy liền có thể chứng được mà phải từ nội tâm chứng được pháp chân như.

Này thiện nam! Nói nơi hoang vắng là chỉ cho sinh tử. Nóng khát là chỉ cho tất cả hữu tình ở trong cảnh giới bị phiền não nóng bức khát khổ. Người chỉ đường tức là Chư Phật, Bồ Tát tri thức thiện. Người nói chính mình đã trải qua và từng uống nước tức là người thông hiểu thiện xảo, bậc có khả năng biết rõ con đường nhất thiết trí tự nội tâm chứng được pháp tánh thù thắng.

Lại nữa, này thiện nam! Nay ta lại nói ví dụ cho ông hiểu rõ. Giả sử Như Lai trụ ở đời một kiếp vì người nơi Thiệm Bộ Châu khen ngợi thức ăn của Chư Thiên rất ngọt ngào thơm ngon, thanh tịnh vi diệu, nếu ai nếm vào thì được an lạc.

Ý ông thế nào?

Những hữu tình ấy nghe lời này rồi liền tự nội tâm biết được mùi vị cam lồ như vậy chăng?

Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Không, bạch Thế Tôn! Người ấy tuy nghe Phật nói cam lồ nhưng hoàn toàn không thể biết được mùi vị của cam lồ.

Phật nói: Này thiện nam! Với ví dụ này, ông nên biết như vậy, chẳng phải chỉ nghe, tư duy liền có thể tự nội tâm chứng đắc.

Thiện nam! Ví như có người ăn trái ngon rồi khen ngợi với người chưa ăn quả ấy hương vị đầy đủ.

Ý ông thế nào?

Người chưa ăn có thể bên trong biết được mùi vị ấy chăng?

Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Không, bạch Thế Tôn!

Phật nói: Này thiện nam! Điều ấy cũng như vậy, với ví dụ này ông nên biết như vậy, chẳng phải chỉ nghe, tư duy liền có thể tự nội tâm chứng được.

Đức Phật dạy như vậy rồi, Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Ngày nay, Đức Như Lai có thể vì con mà dạy pháp chính yếu này. Nếu có ai được nghe pháp môn này, nên biết người ấy sẽ được chứng đắc.

Vì sao?

Bạch Thế Tôn! Vì thiện nam ấy nhờ pháp này nên chắc chắn sẽ được pháp tánh.

Phật nói: Đúng vậy! Đúng vậy! Đã biết nhân rồi thì sẽ được pháp này.

Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì được pháp giới thiện xảo.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được tánh không.

Những gì là mười?

1. Có khả năng biết tánh không của lực.

2. Có khả năng biết tánh không của vô úy.

3. Có khả năng biết tánh không của pháp bất cộng.

4. Có khả năng biết tánh không của giới uẩn.

5. Có khả năng biết tánh không của Tam Ma Địa.

6. Có khả năng biết tánh không của bát nhã.

7. Có khả năng biết tánh không của giải thoát uẩn.

8. Có khả năng biết tánh không của giải thoát tri kiến uẩn.

9. Có khả năng biết tánh không của không.

10. Có khả năng biết tánh không của thắng nghĩa.

Bồ Tát tuy hành nơi tánh không nhưng không chấp đoạn lại không chấp không cũng không thấy tánh không, cũng không nương vào tánh không và cũng không nhập vào tánh vô sở hữu.

Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì được gọi là hành hạnh tánh không.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì được hạnh vô tướng.

Những gì là mười?

1. Xa lìa ngoại tướng.

2. Xa lìa nội tướng.

3. Xa lìa tướng hý luận.

4. Xa lìa tướng phân biệt.

5. Xa lìa tướng có sở đắc.

6. Xa lìa tướng việc làm.

7. Xa lìa tướng sở hành.

8. Xa lìa tướng sở duyên.

9. Có khả năng biết thức là tướng không thể thủ đắc.

10. Biết được tướng của sự vật không thể thủ đắc.

Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì được hạnh vô tướng.

Bấy giờ, Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nên học mười pháp này như thế nào?

Phật bảo: Này thiện nam! Cảnh giới của Chư Phật không thể nghĩ bàn, vì nó xa lìa cảnh giới suy lường.

Thiện nam! Nếu các hữu tình suy lường cảnh giới pháp tánh của Như Lai thì tâm mê muội hoàn toàn chẳng thể thấy được pháp tánh ở bờ này, bờ kia, chỉ thêm lao nhọc mà thôi.

Vì sao?

Vì cảnh giới của Như Lai không thể nghĩ bàn, thâm diệu khó lường, siêu vượt tất cả cảnh giới do tính toán đo lường hư vọng, siêu vượt tất cả cảnh giới có sở đắc. Vì nghĩa này nên chẳng phải do tính toán hư vọng kia mà tư duy đo lường được.

Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nay con có ít việc muốn hỏi, cúi xin Như Lai thương xót chấp thuận lời cầu thỉnh của con mà giảng nói cho.

Phật nói: Này thiện nam! Tất cả Chư Phật đều cho phép ông hỏi những nghi vấn, tùy chỗ ông muốn hỏi ta sẽ giải thích cho.

Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Phàm tự khen mình chẳng phải pháp của Bậc Chánh Sĩ, vì sao Như Lai tự khen cảnh giới của Như Lai vượt hơn tất cả?

Phật nói: Hay thay! Hay thay! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ nói cho ông.

Thiện nam! Như Lai không vì ngã mạn, cao ngạo, tham đắm lợi dưỡng, cúng dường, hầu hạ, tiếng tốt là bậc tri thức, sợ người khác lấn lướt mà tự khen ngợi.

Này thiện nam! Như Lai không kiêu ngạo, không nói lời dối trá, chẳng dua nịnh, ngoài ra chỉ vì lợi ích làm cho các hữu tình được an lạc, chứng pháp tánh. Hữu tình đối với Như Lai phát sinh lòng tin tịnh tín hoan hỷ vui mừng sẽ thành tựu được bậc pháp khí. Như Lai hay diễn thuyết làm lợi ích cho hữu tình.

Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Tất cả hữu tình không thể biết được oai lực công đức của Như Lai, nay Như Lai cần phải tự khen chăng?

Phật nói: Này thiện nam! Chúng sinh cõi này tín căn mỏng, ít, trí lực thấp kém, cho nên không thể biết được công đức cho đến oai lực của Như Lai. Vì thế Như Lai tự khen để khiến cho họ biết. Ví như có vị lương y khéo biết phương dược, có khả năng trị nhiều bệnh. Nơi vị lương y ở có nhiều bệnh tật, lại không có thầy thuốc nào khác có thể trị bệnh.

Bấy giờ, vị lương y suy nghĩ: Những người này bị bệnh khổ bức bách, ở đây có thuốc hay mà họ không thể biết cũng không biết ta có thể chữa trị được bệnh cho họ.

Lúc đó, vị lương y đến trước các bệnh nhân tự khen rằng: Ta có thể chữa bệnh và giỏi về thuốc. Bấy giờ, bệnh nhân đã biết rõ vị ấy là bậc lương y nên hết lòng kính tin, nương theo vị lương y mà chữa trị, tất cả các bệnh đều được thuyên giảm.

Này thiện nam! Ý ông thế nào?

Vị lương y ấy cũng cho là tự khen mình chăng?

Bồ Tát Chỉ Cái bạch Phật: Không! Bạch Đức Thế Tôn!

Phật nói: Này thiện nam! Đúng vậy! Đúng vậy! Vì Chư Phật Như Lai là bậc Vô Thượng Đại Y Vương, khéo biết nguyên nhân bệnh phiền não của các hữu tình mà ban cho thuốc pháp.

Nhưng vì các hữu tình ấy không thể biết được Chư Phật Như Lai giỏi có thể trừ được những bệnh ấy, nên Chư Phật mới tự khen công đức oai lực của mình để cho chúng sinh nghe rồi phát khởi lòng tin kính sâu xa, nương tựa Đức Như Lai mà được trừ bệnh phiền não. Lúc ấy, Như Lai làm đại y vương ban cho thuốc pháp lớn khiến cho bệnh phiền não của các hữu tình đều được giảm dần.

Những gì gọi là thuốc pháp lớn?

Thuốc pháp lớn là quán bất tịnh, quán từ bi, quán duyên khởi…

Này thiện nam! Do nhân duyên đó Như Lai quán thấy cùng khắp mà tự tán thán.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì xa lìa tất cả sự mong cầu nương tựa.

Những gì là mười?

1. Không mong cầu dựa vào sự bố thí.

2. Không mong cầu dựa vào sự trì giới.

3. Không mong cầu dựa vào sự nhẫn nhục.

4. Không mong cầu dựa vào sự tinh tấn.

5. Không mong cầu dựa vào sự tĩnh lự.

6. Không mong cầu dựa vào bát nhã.

7. Không mong cầu dựa vào ba cõi.

8. Nương tựa vào bồ đề mà không có sự mong cầu.

9. Nương tựa vào chánh đạo mà không có sự mong cầu.

10. Nương tựa Niết Bàn mà không có sự mong cầu.

Vì sao?

Vì Chư Bồ Tát xa lìa mọi tướng nương tựa.

Này thiện nam! Đại Bồ Tát không còn sự nương tựa nên có thể du hành khắp tất cả thế gian.

Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì có thể xa lìa tất cả sự mong cầu nương tựa.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau thì được gọi là hành tâm từ.

Những gì là mười?

1. Lòng từ không giới hạn.

2. Lòng từ không phân biệt.

3. Được các pháp từ.

4. Được tâm từ quyết định tư duy về một duyên.

5. Lòng từ không ngăn ngại.

6. Lòng từ thường vì lợi ích.

7. Lòng từ bình đẳng đối với tất cả hữu tình.

8. Lòng từ không gây tổn hại.

9. Lòng từ biến khắp tất cả.

10. Lòng từ xuất thế gian.

Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này thì gọi là tự tánh tu từ.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây là hành tâm bi.

Những gì là mười?

1. Thấy các hữu tình không nơi nương tựa, không ai cứu giúp chịu sự khổ não, liền khởi lòng thương xót phát tâm bồ đề.

2. Phát tâm bồ đề rồi dũng mãnh tinh tấn mau nhập vào pháp tánh.

3. Nhập pháp tánh rồi làm lợi ích cho hữu tình.

4. Vì những hữu tình keo kiệt làm cho họ bố thí.

5. Vì hữu tình hủy phạm giữa chừng, khiến cho họ trì giới.

6. Vì hữu tình sân hận khiến cho họ nhẫn nhục.

7. Vì hữu tình biếng nhác khiến cho họ tinh tấn.

8. Vì hữu tình tán loạn khiến cho họ định tĩnh.

9. Vì hữu tình ngu si khiến cho họ có trí tuệ.

10. Tuy vì hữu tình chịu những khổ não quyết chí cứu giúp chẳng có nhàm chán, mỏi mệt, đối với Đại Bồ Tát chẳng có thoái chuyển.

Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này gọi là tự tánh tu bi.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây là hành tâm hỷ.

Những gì là mười?

1. Thấy mình ra khỏi những nơi lao ngục, lửa dữ thiêu đốt như vậy mà sinh hoan hỷ.

2. Thấy mình có thể đoạn trừ sự sinh tử trói buộc triền miên như vậy mà sinh hoan hỷ.

3. Thấy mình có khả năng vượt qua những loại tầm tứ tà chấp tạp loạn, biển lớn sinh tử như vậy mà sinh hoan hỷ.

4. Thấy mình bẻ gãy ngọn cờ kiêu mạn lâu đời như vậy mà sinh hoan hỷ.

5. Thấy mình có khả năng dùng trì kim cang phá sập ngọn núi phiền não, thậm chí chẳng còn một mảy trần như vậy mà sinh hoan hỷ.

6. Thấy mình nay đã được an ổn lại có khả năng làm cho người khác an ổn như vậy mà sinh hoan hỷ.

7. Thấy mình say ngủ trong đêm dài được thức dậy và có khả năng làm cho hữu tình khác trong nhiều kiếp bị dây ái trói buộc, si mê ngăn che tăm tối đều được giác ngộ như vậy mà sinh hoan hỷ.

8. Thấy mình đối với những nẻo ác đã được giải thoát còn có khả năng làm cho hữu tình khác được giải thoát như vậy mà sinh hoan hỷ.

9. Thấy mình ở trong nhiều kiếp sinh tử mênh mông, khổn khổ đói khát, đi một mình không bạn bè, lưu chuyển không cùng tận, không biết đường chánh, không biết nơi chốn, nay đã biết được đường chánh lại có khả năng chỉ đường cho người khác như vậy mà sinh hoan hỷ.

10. Thấy mình nay có khả năng hướng đến thành lũy nhất thiết trí như vậy mà sinh hoan hỷ.

Này thiện nam! Bồ Tát thành tựu mười pháp này gọi là tu tâm hỷ.

Lại nữa, này thiện nam! Bồ Tát nào thành tựu mười pháp sau đây thì có khả năng thực hành tâm xả.

Những gì là mười?

1. Ở trong chỗ thấy sắc của mắt mà được hạnh xả.

2. Ở trong sự nghe tiếng của tai mà được hạnh xả.

3. Ở trong sự ngửi mùi của mũi mà được hạnh xả.

4. Ở trong sự nếm vị của lưỡi mà được hạnh xả.

5. Ở trong sự xúc chạm cảm nhận của thân mà được hạnh xả.

6. Ở trong sự biết pháp của ý mà được hạnh xả. Khi thực hành hạnh này với sắc… hoàn toàn không não hại, không gây tổn hại, không diệt tận.

7. Ở trong khổ khổ được hạnh xả.

8. Ở trong hoại khổ mà được hạnh xả.

9. Ở trong hành khổ mà được hạnh xả. Khi thực hành hạnh này đối với tánh của khổ khổ, hoại khổ, hành khổ không não hại, không gây tổn hại, không diệt tận.

10. Ở trong hữu tình việc cần làm đã làm xong mà được hạnh xả.

Bồ Tát phát tâm hoan hỷ tịnh tín vui mừng, suy nghĩ thế này: Các hữu tình kia tuy đã tự độ, nhưng ta nên làm cho họ được hạnh độ thoát với tâm xả.

***