Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách đà La Ni

PHẬT THUYẾT KINH

BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng

Pháp Sư Lý Vô Siểm
 

BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH

MINH CHỦ CHÚ VƯƠNG

PHẨM BỐN

PHẨM PHÁP THÀNH TỰU TƯỢNG
 

Bấy giờ, lại nói Pháp làm Tượng. Cho Họa Sư kia thọ nhận tám giới khiến trì trai trong sạch. Nên ở trên vải lụa trắng chẳng cắt xén, vẽ hình tượng Quán Tự Tại Bồ Tát. Trong các màu sắc chẳng được để keo nấu bằng da thú. Làm màu búi tóc như Liên Hoa Tạng. Trên mặt có ba con mắt, lụa mỏng màu trắng quấn thân, khoác da hươu đen, dựng dây lưng cột buộc eo.

Thân có bốn tay, bên trái: Tay bên trên cầm giữ hoa sen, tay bên dưới cầm giữ Táo quán bình chứa nước rưới vảy.

Bên phải: Tay bên trên cầm tràng hạt, tay bên dưới rũ hướng xuống dưới làm thí vô úy. Mặc áo màu nhiệm của Cõi Trời, tất cả vật nghiêm sức dùng trang nghiêm. Thân đứng trên hoa sen, trăm ngàn ánh sáng trang nghiêm mão đội đầu kèm rải hoa tạp khiến có uy đức.

Chuỗi Anh Lạc hình nửa vành trăng, vòng đeo tai, xuyến đeo cánh tay cùng với xuyến đeo bàn tay, Anh Lạc trang nghiêm thân ấy, làm khuôn mặt vui vẻ, để Đức A Di Đà Amitābha: Vô Lượng Quang trên đỉnh đầu của Tượng.

Làm Tượng nà xong, vào ngày 8, ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, chọn ngày có sao Tú tốt, không có mây, không có Mặt Trời. Hoặc vào mùa xuân, hoặc đang mùa Thu.

Trước tiên, ở đất đã chuẩn bị bên ngoài thành, loại bỏ gạch, đá, gai góc, xưng, vật ác… đất ấy bàng phẳng ngay ngắn, chẳng cao chẳng thấp. Đất ấy có màu trắng hoặc có cỏ xanh, mọi loại cây hoa, cây có quả trái, rừng rậm xum xuê với nơi có sông, suối, ao tắm vòng khắp… rồi làm cái Đàn vuông vức, dùng phấn năm màu chia bày, vẽ cho thật đẹp.

Nói năm màu: Một là màu xanh, hai là màu vàng, ba là màu đỏ, bốn là màu trắng, năm là màu cỏ nhạt.

Ấy là: Tro đá, đất đỏ, thư hoàng, vật khí ở phương Tây Ấn Độ cùng kim tinh với đất màu vàng ròng kim thổ. Dùng phấn năm màu của nhóm như vậy nghiêm sức Đàn ấy. Đàn làm bốn cửa, cửa này tức là bốn cửa Cát Tường.

Lại làm Thương Ca Śaṅkha: Vỏ ốc màu trắng với Nan Đề Ca Thất Lý Phạt Tha Nandika śrivatsa: Chữ Vạn ở Tây Quốc Ấn Độ với nhóm Mãn Bình dùng màu sắc vẽ lên mặt đất, làm hình cái bình.

Ở Chánh giữa Đàn làm cái ao hoa sen, trong ao làm đủ mọi loại hoa sen, với các chim tạp, ngỗng, nhạn tràn đầy trong đấy. Ở trong cái ao ấy, an trí Tôn Tượng ao ấy cũng dùng phấn màu chia bày trên mặt đất. Dùng mọi loại hoa, vòng hoa, hương bột, hương đốt, hương xoa bôi với dựng lập phan, phướng, lọng bên trong Đàn.

Ở bốn mặt của Đàn đều để một cái bình hoặc vàng, hoặc bạc, hoặc đồng, hoặc sành sứ. Ở trong bình ấy chứa đầy nước sạch. Lại dùng mọi loại các cây hoa cắm vào miệng bình, dùng tơ lụa dày cột thắt dùng tơ lụa dày cột thắt cây trong bình kèm với tất cả nhóm thuốc, ngọc báu, vàng… chứa đầy bên trong cái bình ấy. Dùng màu sắc vẽ trên phần cao nhất của cái bình khiến cho thật đẹp.

Lại ở bên trong Đàn, rải mọi loại hoa với hoa lúa đậu. Cắm mọi cây hoa tràn đầy trong Đàn. Giăng cái trướng màu trắng ở bốn mặt Đàn đều sai một người thủ hộ Đàn ấy.

Người Trì Chú dùng nước nóng thơm tắm gội, mặc áo sạch mới. Mỗi ngày ba thời thọ nhận ba Luật Nghi. Ở trước mặt Quán Tự Tại Bồ Tát dâng thức ăn màu trắng cúng dường. Ấy là nhóm sữa, váng sữa đặc lạc với Tô Mật.

Đốt Trầm Thủy Hương, Đàn Hương, Tô Hợp Hương, Long Não Hương. Thiêu đốt cúng dường xong thì người Trì Chú ngồi Kiết Già, tác Liên Hoa Ấn để ngang trái tim rồi chắp tay lại. Lễ bái tất cả Chư Phật, Bồ Tát xong, liền nên tụng Chú.

Chú thứ hai là:

Án a mô già, bát la để ha đá la xoa, la xoa, ma ma.

Tự xưng tên: Tôi tên là… hổ hồng phán tra.

OṂ. AMOGHA APRATIHATA RAKṢA RAKṢA MAMA.

Tự xưng tên, con là…

HŪṂ PHAṬ.

Chú này dùng kết búi tóc trên đỉnh đầu.

Chú thứ ba là:

Án a mô già, bàn đà hổ hồng hổ hồng phán tra.

OṂ. AMOGHA HŪṂ HŪṂ PHAṬ.

Chú này kết Đàn.

Chú thứ tư là:

Án a mô già, bát la để ha đá am, hổ hồng phán tra.

OṂ. AMOGHA APRATIHATA AṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ.

Chú này kết Giới.

Chú thứ năm là:

Án 1a mô già đế lễ lộ kế dã tỳ xã gia, ca la ma hổ hồng phán tra.

OṂ. AMOGHA TRAILOKYA VIJAYA KARMA HŪṂ PHAṬ.

Nên dùng Chú này kết Tứ Phương Giới.

Chú thứ sáu là:

Án a mô già, la xoa toa ha.

OṂ. AMOGHA RAKṢA SVĀHĀ.

Chú vào thân của mình.

Chú thứ bảy là:

Án a mô già, hổ hồng.

OṂ. AMOGHA HŪṂ.

Chú này hộ giúp đồng bạn.

Chú thứ tám là:

Án a mô già, đà ma đà ma hổ hồng phán tra.

OṂ. AMOGHA DHAMA DHAMA HŪṂ PHAṬ.

Nên dùng Chú này chú vào hương thiêu đốt.

Chú thứ chín là:

Án  a mô già, cật lý ha noa, cật lý ha noa hổ hồng phán tra.

OṂ. AMOGHA GṚHṆA GṚHṆA HŪṂ PHAṬ.

Nên dùng Chú này chú vào hoa, thức ăn uống… sau đó cúng dường.

Chú thứ mười là:

Án a mô già, tỳ xã gia hổ hồng phán tra.

OṂ. AMOGHA VIJAYA HŪṂ PHAṬ.

Làm tất cả việc thì nên tụng Chú này.

Lúc đó, người Trì Chú tụng Chú cho đến khi tượng Quán Tự Tại lay động làm hạn định. Người Trì Chú đừng sợ hãi, chỉ nên tụng Chú cho đến khi tỏa khói, cũng nên tụng Chú cho đến khi bốc lửa.

Nếu lay động thì được giàu có, tỏa khói thì được quan vị. Nếu bốc lửa liền được bay trong hư không. Đây là hai loại pháp thành tựu.

Nếu khi lửa bốc cháy thời cũng đừng đứng lên. Quán Tự Tại Bồ Tát liền tự hiện thân an ủi người Trì Chú, ban cho chỗ mong cẩu. Người ấy chứng được Bồ Tát Tam Muội, được bất thoái chuyển vô thượng bồ đề, thân đời này được túc mệnh trí, lại được vô lượng trăm ngàn công đức.

Đã xong Phẩm thứ tư: Pháp thành tựu tượng.

***