Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách đà La Ni

PHẬT THUYẾT KINH

BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng

Pháp Sư Lý Vô Siểm
 

BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH

MINH CHỦ CHÚ VƯƠNG

PHẨM MƯỜI BẢY

 BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH

CHÚ ẤN A MƯU GIÀ BÀ XA

THẦN THÔNG TỰ TẠI ẤN CHÚ TÂM
 

1. Vân Tự Tại Ấn Chú thứ nhất: Tay phải co ngón vô danh với ngón út, đem ngón cái đè trên móng ngón ấy, duỗi thẳng ngón giữa, ngón trỏ.

Chú là: Ô hồng.

OṂ.

Đây là Mê Gia Nhiếp Bà La Ấn Megheśvara mudra tối thắng đã nói, làm tất cả việc hay thành cát tường.

2. Bất Không Tâm Ấn Chú thứ hai.

Dựa theo lúc trước, chỉ sửa: Tay phải co ngón vô danh, ngón út dính lòng bàn tay, liền đem ngón cái đè lên lóng giữa ấy, dựng thẳng ngón giữa, ngón cái rồi hơi co lại.

Chú là: Hy lợi.

HRĪḤ.

Ấn này nói tên gọi là Bất Không Tâm Ấn. Tất cả chúng sinh trì Minh, chúng Chú Tiên đều quy y, cung kính, cúng dường.

3. Tam Ma Địa Ấn Chú thứ ba: Hai tay cùng hợp mười nhón tương ứng với nhau, kèm co hai ngón vô danh với hai ngón giữa dính lòng bàn tay, đều cùng dính lưng ngón tay, kèm dựng thẳng hai ngón út, hai ngón cái đều lìa nhau.

Chú là: Ha.

HA.

Đây là Chú của Tam Ma Địa Ấn, làm tất cả pháp của Quán Thế Âm Bồ Tát đều được thành tựu.

4. Quán Thế Âm Tâm Ấn Chú thứ tư: Hai tay nắm quyền, hướng tám ngón tay vào bên trong, cài chéo nhau trong lòng bàn tay, kèm dựng thẳng hai ngón cái.

Chú là: Hứ.

HI.

Đây là Quán Thế Âm Tâm Ấn Chú. Do sức của Ấn Chú này, hay khiến Trì Chú thương xót chúng sinh, được thành tựu pháp của Liên Hoa Tạng không có nghi ngờ.

5. Liên Hoa Ấn Chú thứ năm: Đem hai cổ tay dính nhau, bung dựng mười ngón tay, hơi co lại hướng lên trên như hoa sen nở.

Chú là: Hổ hồng.

HŪṂ.

Đây gọi là Liên Hoa Ấn mà Thiên Quang Vương đã nói, nguyện đã mong cầu được đầy đủ theo thân của mình phát ra.

6. Cứu Bạt Ủng Hộ thế gian Tâm Ấn Chú thứ sáu: Hai tay đem ngón vô danh, ngón út nắm quyền, đem hai ngón cái đều đè trên trên các ngón ấy, dựng hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón, dựng hai ngón trỏ khiến hơi co đầu ngón.

Chú là: Phán tra.

PHAṬ.

Đây là Cứu Bạt Ủng Hộ thế gian Tâm Ấn Chú.

7. Kim Cương Kết Ấn Chú thứ bảy: Hai tay đem ngón út, ngón vô danh, ngón giữa hướng vào bên trong cài chéo nhau, bên phải đè bên trái rồi co lại làm quyền, dựng thẳng hai ngón trỏ với hai ngón cái kèm dính nhau.

Chú là: Toa ha.

SVĀHĀ.

Đây là Quán Thế Âm Kim Cương Kết Ấn Chú, khi xưng thì hay tồi phá tất cả chúng ma, lại cũng hay chặt đứt tất cả Yểm Cổ Vu Thuật gây tai họa cho con người.

8. Tam Ma Địa Liên Hoa Ấn Chú thứ tám: Chắp hai tay lại sao cho lòng bàn tay trỗng rỗng.

Chú là: Tự.

TAṂ.

Đây gọi là Tam Ma Địa Liên Hoa Ấn. Do sức này cho nên được Tam Ma Địa.

9. thế gian Dũng Mãnh Sân Nộ Ấn Chú thứ chín: Tay phải đem ngón vô danh đè lưng ngón út khiến cho đầu ngón dính nhau, dựng thẳng ngón giữa. Hơi co ngón trỏ, co ngón cái nằm ngang.

Chú là: A. Ā.

Đây là thế gian Dũng Mãnh Sân Nộ Ấn hay phá tất cả các quỷ thần ác với phá hàng Dạ Xoa, La Sát Sa.

10. Quán Âm Đỉnh Ấn Chú Đẳng thứ mười: Hai tay đem ngón út, ngón vô danh, ngón giữa hướng vào bên trong cài chéo nhau, dựng hai ngón trỏ dính đầu nhau, đem hai ngón cái vịn bên cạnh ngón trỏ.

Chú là: Lê gia.

RYĀ.

Đây là Quán Âm Đỉnh Ấn ở trong Ba Cõi hay làm ủng hộ.

11. Đại Kết Giới Ấn Chú thứ mười một: Hai tay đem ngón út, ngón vô danh, cài chéo nhau ở trong lòng bàn tay, bên phải đè bên trái, dựng hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón, dựng hai ngón cái, co hai ngón trỏ đè hai ngón cái.

Chú là: Bà. VA.

Đây là Đại Kết Giới Ấn Chú hay khiến cho hàng Dạ Xoa, các Quỷ, loài cướp đoạt tinh khí, Đại Yết La Ha Mahā grahā ở mười phương, nhìn thấy Đại Ấn này thảy đều lui tan, diệt ma không có dư sót, quyết định không có nghi ngờ.

12. Năng Tiêu Long Độc Đều Phục Long Ấn Chú thứ mười hai: Hai ngón vô danh, ngón giữa, ngón trỏ hướng ra ngoài cài chéo nhau, dựng hai ngón út dính nhau, đem hai ngón cái đè hai ngón trỏ.

Chú là: Lô. LO.

Đây là Năng Tiêu Long Độc Điều Phục Độc Long Ấn Chú do Đức Chánh Đẳng Quán Thế Âm Bồ Tát nói.

13. Quán Thế Âm Hỏa Ấn Chú thứ mười ba: Hai ngón vô danh, ngón út, ngón giữa hướng ra ngoài cài chéo nhau, dựng hai ngón trỏ cùng hợp nhau, đem hai ngón cái phụ bên cạnh ngón trỏ Chú là: Chỉ. KI.

Đây là Quán Thế Âm Hỏa Ấn Chú chẳng bị kiếp hỏa thiêu đốt.

14. Ma Ni Hải Ấn Chú thứ mười bốn: Hai tay đem tám ngón tay hướng ra ngoài cài chéo nhau, bên phải đè bên trái, đem hai ngón cái đè ngón trỏ bên phải.

Chú là: Đế. TE.

Đây là Ma Ni Hải Ấn Chú đều hay tiêu trừ tất cả mưa mạnh bạo.

15. Năng Giải Phộc Ấn Chú thứ mười lăm: Hai tay đem ngón út hướng vào bên trong cài chéo nhau, hai ngón vô danh hướng ra bên ngoài cài chéo nhau, dựng hai ngón trỏ dính nhau, đem hai ngón cái đều phụ ngón trỏ sao cho đầu ngón trụ nhau, đem hai ngón cái nắm cạnh ngón trỏ.

Chú là: Nhiếp bà. ŚVA.

Đây là Năng Giải Phộc sự cột trói Ấn Chú. Quán Thế Âm Bồ Tát đều hay tiêu trử sự cột trói của ba đời.

16. Tượng Nhĩ Ấn Chú thứ mười sáu: Người Trí co ngón cái phải ngay trong lòng bàn tay, hơi cong ngón trỏ, đều duỗi các ngón còn lại.

Chú là: La. RĀ.

Đây là Tượng Nhĩ Ấn Chú. Y La Bà Noa chịu khuất phục, không có nghi ngờ Y La Bà Noa Airāvaṇa là con voi của Đế Thích.

17. Liên Hoa Man Ấn Chú thứ mười bảy: Dựng hai ngón vô danh cùng trụ đầu ngón, hai ngón út hướng ra bên ngoài cài chéo nhau, hai ngón giữa hai ngón trỏ dựng cong đầu ngón trụ nhau, dựng hai ngón cái vịn cạnh ngón trỏ.

Chú là: Dã. YA.

Đây là Quán Thế Âm Liên Hoa Man Ấn đều hay tiêu diệt tất cả chú trớ, là điều mà Đức Chánh Đẳng Quán Thế Âm Bồ Tát đã nói.

18. Khiết Nhất Thiết Minh Ấn Chú thứ mưởi tám: Đem hai ngón út hướng ra bên ngoài cài chéo nhau, hai ngón vô danh hướng vào bên trong cài chéo nhau, dựng hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón, co hai ngón trỏ, hai ngón cái cùng trụ đầu ngón, nghiêng khuôn mặt hướng về bên trái, dạng như Mã Đầu Hayagrīva.

Chú là: Hy lợi. HRĪḤ.

Quán Thế Âm Bồ Tát nói Ấn Pháp này hay ăn nuốt pháp của tất cả Minh Chú.

19. Kim Cương Tam Xoa Kích Vương Ấn Chú thứ mười chín.

Tay phải đem ngón út, ngón giữa, ngón cái kèm dựng dính nhau, co ngón vô danh, ngón trỏ ngay trong lòng bàn tay.

Chú là: Ha. HA.

Đây là Kim Cương Tam Xoa Kích Vương Ấn.

20. Dữ Diêm La Vương Viễn Ly Tối Thắng Vô Năng Thắng Ấn Chú thứ hai mươi: Hai tay đem ngón út, ngón giữa, ngón cái hướng vào bên trong cài chéo nhau, dựng co hai ngón vô danh cùng trụ nhau, lại dựng hai ngón giữa khiến trụ đầu ngón, co hai ngón trỏ sát bên cạnh ngón giữa.

Chú là: Hứ. HI.

Đây là Vô Năng Thắng Ấn Chú.

21. Hỏa Diệm Ấn Chú hứ hai mươi mốt: Dựng hai ngón út, hai ngón vô danh, ngón trỏ cùng trụ nhau, dựng hai ngón giữa, ngón cái hơi co đầu ngón cách nhau khoàng ba phân.

Chú là: Hổ hồng. HŪṂ.

Đây là Hỏa Diệm Ấn Chú đều hay thiêu đốt sự đâm chích của tất cả Ma Mārā.

Từ thứ mười tám cho đến Chú này dọi là Tứ Tự Tâm Chú, tuy đồng với Ấn lúc trước, nhưng việc dùng thì khác.

22. Kim Cương Bổng Ấn Chú thứ hai mươi hai: Hai tay co hết mười ngón vào trong lòng bàn tay rồi nắm quyền.

Liền tụng Chú là: Hy lợi ha hứ hổ hồng phán tra toa ha.

HRĪḤ HA HI HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ.

Kim Cương Bổng Ấn Chú này gọi là Thanh Phổ Văn. Ấn này thông với dụng trong các Ấn lúc trước. Chú này có tên là Ngũ Tự Tâm Chú.

Đã nói xong Pháp của Bất Không Quyến Sách.

Từ Chú thứ nhất đến các Chú bên dưới, trừ toa ha Svāhā ra đều là một chữ. Chỉ có nhóm nhị hợp, tam hợp thì nên hô gấp. Chú bên cạnh chữ thì miệng nên chuyển lưỡi hô. Chữ phán tra Phaṭ thì há miệng lớn hô, lưỡi trụ trên nóc vọng, chỉ có Huệ Nhật cẩn thẩn xem xét.

Trong Tây Vực Đại Chú Tạng nói: Khi Đức Phật trụ ở đời, phàm trong Chú Pháp nói là người tụng mười vạn biến được thành. Do Uy Lực của Phật khi Đức Phật trụ ở đời cho nên được thành Phật thành độ, sau này tụng mười vạn biến thì chẳng thành.

Duyên chúng sinh có phước mỏng, thiết yếu tu đủ một trăm vạn biến thì mới có thể được thành, dùng biến số nhiều cho nên: Một là tiêu tất cả chướng, hai là tức nơi Chú thong thả có công ấy.

Nếu đời trước chúng sinh có nghiệp chướng nặng nề, tụng đủ một trăm vạn biến cũng chẳng được thành, cứ như thế nên tụng hai trăm vạn biến hoặc ba trăm vạn biến hoặc bốn trăm vạn, cho đến tụng đủ bảy trăm vạn biến ắt thành tựu. Có điều trong đây nói người tụng một trăm vạn biến được pháp thành tựu.

Điều trước tiên ấy, người tụng Bất Không Quyến Sách Chú có công hiệu Tiên Thành Tựu của pháp, vì nhóm người này cho nên nói một trăm lẻ tám biến thành tựu, chưa từng thấy nghe chỉ y theo biến số đã nói lúc trước tụng trì đều được thành tựu.

Một Phẩm Ấn Chú ấy được Huệ Nhật nối tiếp kiểm nhận bản Phạn rồi phiên dịch vào, hợp thành một Phẩm mười bảy. Song, Quyến Sách Chú này lại rất có phương pháp, phiên rộng như điều mà Đại Chú Tạng đã nói.

Có người chưa từng trải qua Hòa Thượng A Xà Lê vào Đại Mạn Trà La Đạo Trường thì tìm lấy Đại Luân Kim Cương Chú tụng hai mươi mốt biến, liền sẽ vào Đàn, sau đó làm các Chú Pháp ắt được thành tựu vậy Quán Thế Âm Bất Không Quyến Sách Mẫu Thân Ấn Chú: Dựng hai ngón cái đều vịn đầu hai ngón út, hai tay kèm dựng dính nhau, hai ngón trỏ cùng vịn ngay trên hai ngón cái, ngón út, hai ngón vô danh cũng thế, hai ngón giữa tay đấu ngón bên trên hơi chẳng cùng đến bên dưới lòng bàn tay dính nhau. Đưa ngón trỏ qua lại.

Chú là?

Quán Thế Âm Bất Không Quyến Sách Thân Ấn Chú Pháp:

Dựa theo lúc trước, chỉ sửa: Mở hai ngón giữa cách nhau khoảng một thốn 1/3 dm, hơi nâng hai ngón trỏ, ngón vô danh đừng dính ngón cái… khoảng giữa ngón trỏ, ngón vô danh mở chứa đất của một ngón giữa, đā ngón trỏ qua lại.

Chú là: Đá điệt tha thấp bế đa dạ thấp bế đa bồ xà dạ ê hề ê hề.

 bát la ma du đà, tát đỏa ma ha ca lô nị ca toa ha.

TADYATHĀ: ŚVETĀYA ŚVETA BHŪJĀYA EHYEHI PARAM.

ŚUDDHA SATVA MAHĀ KĀRUṆIKA SVĀHĀ.

Pháp Ấn Chú này thông với mọi loại, dùng đều có đại lực cũng hay giáng phục tất cả quỷ thần ác, chữa tất cả bệnh. Tất cả nạn giặc cướp đều chẳng thể hại.

Nếu bị gông cùm, lấy mỡ Thí Du Vị La làm Ấn Chú xong. Xoa bôi lên trên gông cùm, lại chí tâm chú vào, liền được giải thoát.

Bất Không Quyến Sách Khẩu Pháp Ấn: Hai tay kèm dựng song song hai ngón út, đem ngón vô danh của tay phải đặt kín lưng ngón vô danh với ngón giữa của tay trái, hướng theo kẽ hở của ngón trỏ, ngón giữa đi vào.

Ngón vô danh của tay trái theo khoảng giữa của ngón giữa, ngón vô danh của tay phải đi ra, liền nhập vào kẽ hở cũa ngón trỏ, ngón giữa. Dựng thẳng hai ngón giữa trụ đầu nhau, co hai ngón trỏ đều móc đầu ngón vô danh, kèm dựng hai ngón cái trụ đầu nhau, cùng cách ngón út khoảng nửa thốn 1/6 dm.

Đồng tụng Chú lúc trước Bất Không Quyến Sách Nha Pháp Ấn:

Dựa theo Khẩu Ấn lúc trước, chỉ sửa: Co đầu hai ngón giữa đều vịn đầu hai ngón cái, đưa hai ngón út ra bên ngoài, bên phải đề bên trái cùng nắm lưng ngón vô danh.

Chú: Dùng Chú lúc trước.

Một Pháp Ấn này hay trừ tất cả nạn: Nước, lửa, gió, giặc cướp, đao binh, Vua chúa với nhóm nạn bị cột trói bởi Dạ Xoa, La Sát, tất cả Quỷ Thần, rồng độc, rắn độc…Nếu người ngày ngày thường làm cúng cường sẽ được Quán Thế Âm với các hàng Bồ Tát đều sinh vui vẻ, khi chết được sinh về nước của Đức Phật A Di Đà. Lại nữa tùy ý vãng sinh vào Tịnh Độ ở mười phương.

Nếu muốn chận đứng gió. Trước tiên dùng Chú này chú vào tro một trăm lẻ tám biến, lấy mảnh lũa nhỏ bọc lại rồi đem theo thân. Nếu gió thổi đến, dùng tay phải lấy tro hướng về ngọn gió đánh ném. Tiếp theo, dùng các ngón tay phải còn lại nắm quyền, dựng thẳng ngón trỏ hướng về ngọn gió, luôn luôn tụng Chú, giận dữ quát hét thì gió liền dứt.

Bất Không Quyến Sách Tâm Trung Tâm Chú: Án lê tất để lý lô ca, tì xã dạ a mô già ba xá ma ha cưu lô đà la xà dạ lê đà dạ a ba la để ha đá ô hồng, ô hồng phán.

OṂ. ṚDDHI TRAILOKYA VIJAYA AMOGHA PĀŚA MAHĀ KRODHA.

RĀJĀYA ṚDDHIYA APRATIHATA. OṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ.

Một Pháp Chú này hay diệt tội chướng, sám hối, trị bệnh rất có Thần Nghiệm, đủ như Kinh Bất Không Quyến Sách nói.

Tục Nghiệm Quán Đỉnh Ấn Chú: Co hai ngón cái ở trong lòng bàn tay vịn móng hai ngón vô danh. Lóng giữa của hai ngón vô danh cùng dính nhau, hai đầu ngón út cùng trụ nhau, dựng thẳng hai ngón giữa cùng trụ đầu ngón, hai cón trỏ trụ co đều vịn lóng trên lưng hai ngón giữa.

Chú là: Án bộ, tam mạt la diêm toa ha.

OṂ. BHŪḤ SAMARA YAṂ SVĀHĀ.

Nếu muốn tục nghiệm, mỗi ngày vào lúc sáng sớm, ở trên lọ nước: Kết Ấn tụng.

Chú hai mươi mốt biến rồi rưới khắp đỉnh đầu của mình.

Bất Không Quyến Sách Đà La Ni Kinh.

***