Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách đà La Ni Tự Tại Vương Chú

PHẬT THUYẾT KINH

BẤT KHÔNG QUYẾN SÁCH

ĐÀ LA NI TỰ TẠI VƯƠNG CHÚ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bảo Tư Duy, Đời Đường
 

THÀNH TỰU PHÁP VÀO ĐÀN
 

PHẦN MƯỜI BA
 

Bấy giờ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát nói Đàn Pháp của Bất Không Đà La Ni Thần Chú. Đàn này là Pháp Đại Thừa, là chỗ nhiếp thọ của các Bồ Tát.

Nếu vào Đàn, hoặc Vua, hoặc quan, hoặc phàm phu tưởng mình cùng Phật bình đẳng. Do Trì Chú nên hay lợi ích cho mình và người, không sanh vào cõi ác, thường sanh vào nẻo lành nên vào Đàn cần phải cúng dường.

Người Trì Chú cần phải tinh tấn, vui mừng, phát tâm làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh, không sanh lòng tham lam, chuyên chú nơi tâm, y theo pháp làm Đàn, xa lìa tật đố, không ôm lòng kiêu căng làm các điều tà vạy.

Rõ biết như Pháp niệm tụng không quên, không có mong cầu nơi chúng sanh, phương tiện khéo léo, tâm hành bình đẳng thì chỗ làm nhất định mau hay thành tựu, không khởi ngã mạn, xa lìa các tranh luận, giữ gìn cấm giới, tắm gội sạch sẽ. Người như vậy mới có thể Trì Chú vào Đàn Tràng.

Làm Đàn Tràng có ba loại, một là Địa Đàn, hai là Quốc Đàn, ba là Dân Đàn. Nếu vì Vua mà làm thì gọi là Địa Đàn, vì đại quan làm thì gọi là Quốc Đàn, vì người phàm thì gọi là Dân Đàn. Địa Đàn làm lớn, Quốc Đàn làm bậc trung, Dân Đàn làm nhỏ.

Nếu không y theo đây, trong Đại Đàn làm pháp tất có khởi việc ác. Hoặc Vua, quan và người Trì Chú có các việc ác, do đây nên cần phải y pháp mà làm.

Nếu muốn làm Đàn, trước cần chọn ngày có sao tốt. Hoặc chọn ngày, đất tốt, cát tường. Hoặc bên bờ sông, nơi rừng núi, hoặc trong vườn rừng… nên bỏ gai gốc, xương cốt, gạch đá, cao thấp không bằng phẳng. Đây là chỗ đất xấu, hiểm. Nên tìm nơi đất tốt, đào bỏ đất xấu, lấy đất tốt đổ lên, làm bùn tô đắp bằng phẳng như lòng bàn tay, sáng láng như mặt gương.

Nếu làm Đàn cho Vua thì ngang dọc mỗi mỗi có ba mươi hai khuỷu tay. Dùng bột vàng, bạc, trân châu trộn các màu đỏ, trắng, vàng, xanh lục, đen mà làm giới đạo, bốn mặt Đàn mỗi mỗi mở một cửa, cánh cửa không xa đều có đóng trụ cùng các thứ nghiêm sức làmcửa Cát Tường. Ở ngoài cửa an bày hương hoa.

Ngoài cửa Đông vẽ hai Thiên Vương gìn giữ cửa, bên trái là Trì Quốc Thiên Vương Dhṛta rāṣṭra, bên phải là Tăng Trưởng Thiên Vương Virūḍhaka đều mặc giáp, cầm khí trượng, mặt mày giận dữ, mắt màu đỏ. Trì Quốc Thiên Vương tay cầm kiếm, Tăng Trưởng Thiên Vương tay cầm cây dù.

Ngoài cửa Nam vẽ hai Thiên Vương, bên trái vẽ Xú Mục Thiên Vương Virūpakṣa, bên phải vẽ Xích Mục Thiên Vương, hai vị này mặt đều màu đen, đều mặc giáp, dùng Xích Kim Cang trang nghiêm nơi thân, tay cầm cung tên, đao kiếm.

Ngoài cửa Tây vẽ hai Dạ Xoa Vương, bên trái vẽ Ma Ni Bạt Đạt Ra Dạ Xoa Vương Maṇi bhadra, bên phải vẽ Bố Lặc Nõa Bạt Đạt Ra Dạ Xoa Vương Pūrṇa bhadra, hai vương này đều y bản sắc, mặc giáp trụ trang nghiêm nơi thân, tay cầm búa, dây.

Ngoài cửa Bắc vẽ hai Thiên Vương, bên trái vẽ Đa Văn Thiên Vương Vaiśravaṇa, bên phải vẽ Kim Cang Thủ Thiên Vương Vajra pāṇi, hai vương này đều y bản sắc trang nghiêm các báu, tay cầm khí trượng.

Chính giữa Đàn vẽ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Āryāvalokiteśvara tượng đứng trên giữa tòa sen, trên đảnh tóc xoắn như trôn ốc màu xanh thòng xuống, trên mão báu đều vẽ Phật Vô Lượng Thọ Amitāyus.

Thân Tôn Giả trang nghiêm đầy đủ, thân màu trắng như Bạc Để Ca, có bốn tay. Bên phải một tay cầm hoa sen, một tay cầm bình Quân Trì. Bên trái một tay cầm xâu chuỗi, một tay thí vô úy. Mặt mày đoan trang, vui vẻ, tịch thịnh.

Trên viên quang hào quang tròn trịa vẽ hoa trời để trang sức. Ở trước ngực có chữ Vạn. Bên trái vẽ Đại Thế Chí Bồ Tát Mahā sthāma prāpta hình tướng màu bạch kim, thân mặc áo trời có các thứ trang nghiêm, trật áo hở vai phải, mặt hướng về Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, chắp tay cung kính.

Bên phải vẽ Phổ Hiền Bồ Tát Saman tabhadra thân hình màu như hoa sen trắng, tóc kết như trôn ốc màu xanh thòng xuống, mặt mày trang nghiêm, vui vẻ mỉm cười, trật áo hở vai phải, mặt hướng về Tôn Giả, chắp tay cung kính. Bên dưới Phổ Hiền Bồ Tát vẽ Ma Ma Kê Thiên Nữ Māmaki, Kim Cang Sứ Thiên Nữ Vajra duṭī.

Bên dưới Đại Thế Chí vẽ Đa La Thiên Nữ Tārā, Tỳ Cu Chi Thiên Nữ Bhṛkuṭī. Đa La mặc áo trắng, hai Thiên Nữ kia mặc áo đủ màu. Bốn Thiên Nữ đều mặc áo trời, các báu trang nghiêm,mặt mày vui vẻ mỉm cười, thảy đều quỳ gối, trật áo hở vai phải, hướng về Tôn Giả, chắp tay cung kính.

Phía trước Quán Tự Tại Bồ Tát vẽ Bất Không Quyến Sách Chú Vương, màu hồng lợt, quần áo màu đỏ, tóc trên đầu phất phới, mặt có ba mắt màu đỏ, tai có đeo vòng, miệng lộ bốn nanh, trên hai dưới hai, trán nhăn, bặm môi dưới. Thân có bốn tay dài ngắn, Anh Lạc giao nhau, ở trước mặt Tôn Giả quỳ hai gối sát đất, cúi đầu chiêm ngưỡng lắng nghe.

Lại gần hai bên Tôn Giả vẽ Phạm Vương Brahma, Đế Thích Indra, Na La Diên Nārāyaṇa, Tự Tại Īśvara, Đại Tự Tại Maheśvara, các Chư Thiên, mỗi mỗi y theo bản hình, y phục trang nghiêm đếu đứng, chắp tay hướng về Tôn Giả.

Ở bốn mặt Đàn, mỗi mỗi vẽ một Đại Long Vương Mahā nāgarāja là Sa Kiệt La Long Vương Sāgara, A Na Bà Đạt Đa Long Vương, Nan Đà Long Vương Nanda, Ưu Bà Nan Đà Long Vương Upananda.

Bốn góc Đàn vẽ một A Tu La Vương Asura rāja tức là Quang Minh A Tu La Vương, La Thiếp La A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương Vimacitra, Hống Thanh A Tu La Vương.

Kết Đàn như vậy xong,làm các An và khí trượng nghiêm sức Đàn Trường tức là vẽ Loa Ấn, Luân Ấn, Liên Hoa, Mạn Địa Ca, Lộ Để Ca, Chữ Vạn. Lại nên vẽ Kiếm, Mâu, Giáo, cung, tên, các thứ khí giới. Riếp lại làm lọng trắng, hoa, phướng.

Khi muốn vẽ thời nên chọn thợ vẽ, trước cần phải tắm rửa, mặc quần áo mới sạch, thọ trì tám giới. Nên lấy Uất Kim, Ngưu Huỳnh, Hùng Hoàng, Kim Tinh, Châu Sa, các màu sắc.

Không dùng keo da, nên dùng nước của Kim Đa Lạc Sa mà hòa để vẽ.

Quanh Đàn nên treo các phướng đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng.

Tiếp dùng vàng, bạc, đồng đỏ làm tám cái bình lớn dùng Chiên Đàn, Trầm Thủy, Uất Kim hòa các thứ hương vẽ nơi bình, dùng hoa quý cột nơi cổ bình. Mỗi bình đều đổ đầy nước thơm, đem để trong Đàn.

Tiếp dùng hương tốt, bơ, mật, lạc, sữa năm vật đựng trong bốn cái thau để trong Đàn. Chưng bơ làm bánh, rải đường cát, Thạch Mật trên bánh. Dùng cơm nếp và sữa mè. Dùng cháo hồ ma, cháo đại mạch, các món ngon, trừ máu thịt đều để đầy trong Đàn cúng dường.

Ngoài Đàn bốn mặt đào hào xung quanh, hoặc rào hàng rào tùy ý làm một thứ.

Nơi Đàn bốn mặt, mỗi mỗi mở một cửa. Ngoài cửa có sáu người đứng giữ. Người này thân mặc áo giáp, tay cầm khí giới.

Các Đàn một Cu Lô Xá, xung quanh bốn mặt có bốn binh: Tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh làm ủng hộ ngăn chận Phi Nhân Amanuṣya.

Người Trì Chú dùng nước thơm tắm gội, mặc quần áo mới sạch, làm Pháp Cát Tường, tụng Chú hộ thân, không để Phi Nhân có dịp tìm hại.

Tiếp ở ngoài Đàn, lập một Đàn nhỏ để Vua và quyến thuộc vào trong Đàn này. Lấy nước thơm tắm gội, mặc quần áo trắng mới sạch, giữ tám trai giới, nhịn ăn một ngày một đêm, miệng ngậm Dương Chi cành dương liễu, chú vào hạt cải trắng, bảo Vua và quyến thuộc tự tay nắm lấy. Lấy nước trong bình Cát Tường rải trên đảnh đầu của Vua, bảo Vua một lòng chí thành sám hối.

Người Trì Chú làm trong Đàn, thỉnh các Chú Thần. Dùng hương, hoa, thức ăn uống, đèn sáng, các thứ cúng dường, đảnh lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, tụng Chú này chú vào.

hạt cải trắng rải khắp mười phương Đan Bản ghi Chú này trong quyển trung.

Úm, a mộ già, hắc tư gia, hắc tư gia, hồng, phấn tra.

OṂ. AMOGHA HĀSYA HĀSYA HUṂ PHAṬ.

Đây là Chú Kết Giới. Khi muốn Kết Giới lấy Chú này chú vào hạt cải trắng tán rải mười phương để phòng hộ.

Úm, a mộ già, bát ra để ha đá, mạn đà, mạn đà, ra xoa, ra xoa tự xưng tên tát bà tát đỏa, hồng, cu lam. Úm, phấn tra, sa bà ha.

OṂ. AMOGHA APRATIHATA BANDHA BANDHA RAKṢA RAKṢA SARVA SATVA HUṂ KURU. OṂ PHAṬ SVĀHĀ.

Đây là Kết Đàn Giới Thần Chú. Muốn kết Giới Đàn, dùng Chú này chú vào nước, chú vào tro, chú vào hạt cải trắng rồi tán rải mười phương, tùy xa gần tức thành giới hạn để phòng hộ.

Úm, đế lệ rô chỉ gia vi nhạ gia, mộ già bá xa sa mãng ra, tam ma gia, địa sắt xỉ nam, ma ha sa mãn gia, bát ra đáp bà, hồng nhạ.

OṂ. TRAILOKYA AMOGHA PĀŚA SMARA SAMAYA ADHIṢṬHINĀṂ MAHĀ SAMAYA PRĀPTA HUṂ JAḤ.

Đây là Cấm Tự Thân Chú. Muốn vào Đạo Tràng, trước dùng Chú này chú cấm tự thân, không cho Phi Nhân có dịp làm hại.

Úm, a mộ già, ra xoa, ra xoa Tự xưng tên hồng, phấn tra.

OṂ. AMOGHA RAKṢA RAKṢA HUṂ PHAṬ.

Dùng Chú này để chú vào hương. Nếu vào Đạo Tràng muốn đốt hương thời dùng Chú này chú vào hương, sau đó đốt cúng dường.

Úm, a mộ già, đạm ma đạm ma, bát ra để kế độ báng mang vi lam ma, sa bà ha.

OṂ. AMOGHA DHĀMA DHĀMA PRATI KṚTI PADMA. VILAMBA SVĀHĀ.

Đây là Chú Hoa. Nếu vào ĐạoTràng, muốn dùng hoa cúng dường, trước dùng Chú này chú vào hoa rồi tán rải ở Đàn.

Úm a mộ già, a ha ra, a ha ra, bố sáp bà, đạt phạ xà vĩ ma, a giá lợi ni, hồng, phấn tra.

OṂ. AMOGHA ĀHARA ĀHARA PUṢPA DHVAJA BHĪMA ACARAṆI HUṂ PHAṬ.

Đây là Chú dâng hiến cúng. Khi muốn hiến cúng thời trước dùng Chú này chú vào nước, cánh mễ và các thứ hoa, sau đó tán rải trong Đàn dâng hiến cúng dường.

Úm, a mộ già, a ra xà bát ra để xa kiệt la già, bạt điếm, nghiệt lị hê nõa, nghiệt lị hê nõa, mạt lâm, sa bà ha.

OṂ. AMOGHA ARAJA PRATI ĠARJA PAṬAṂ GṚHṆA GṚHṆA VRŪṂ SVĀHĀ.

Đây là Tọa Chú. Khi muốn ngồi thì dùng Chú này chú vào tòa ngồi trong Đàn, sau đó ngồi Kiết Già ở trên. Dùng hai tay kết Ấn Liên Hoa, tụng Bất Không Quyến Sách Tâm Chú.

Do oai thần của Chú này, trong hư không có hiện tướng lạ, hoặc nghe có tiếng nói pháp, hoặc nghe có tiếng búng ngón tay, hoặc có tiếng khen Lành thay! Lành thay! Hoặc thấy mưa hoa. Người Trì Chú dù nghe thấy như vậy, đây là việc cát tường không thể nghĩ bàn tức biết chỗ làm Đàn Pháp thành tựu.

Vua và quyến thuộc liền vào Đàn. Người tụng Chú từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát cùng Thánh Chúng.

Từ trong Đàn mà ra, cầm tay phải của Vua dẫn đến cửa Đàn, bảo Vua chắp tay, rồi lấy lụa trắng che hai mắt Vua lại, bảo Vua đảnh lễ Chư Phật Bồ Tát và Thần Chú Vương cùng Đa La Thiên Nữ, Tỳ Cu Chi Thiên Nữ, Ma Ma Kê Thiên Nữ, Kim Cang Sứ Thiên Nữ và Đại Thế Chí Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát. Xong bảo Vua phát tâm chí thành sám hối, phát thệ nguyện lớn, tay cầm diệu hoa.

Người Trì Chú dẫn Vua từ cửa Đàn này vào đền giữa Đàn, bưng hoa trước tượng, tùy ý mà để rồi trước thầy quỳ gối, chắp tay thọ Bồ Tát Giới, vĩnh viễn dứt bỏ rượu thịt, không ăn huân tân thức ngũ tân dơ uế, không quy y ngoại đạo tà ma, biết ơn nhớ ơn. Cúi xin Tam Bảo, Bồ Tát, Thanh Văn từ bi gia hộ. Từ đây trở về sau đối với các loài chúng sanh thường ban cho vô úy không có giết hại.

Phát tâm Bồ Tát, nói lời chân thật, không làm tà hạnh, thường hành chánh kiến, không khởi Ngã Kiến Bố Đặc Già La Pudgala, hết thảy tà kiến cần cầu ra khỏi, chứng pháp tánh không, không chấp trước hết thảy các tướng.

Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy. Tác lời thề này, mọi công đức có được mau ra khỏi thế gian, thường làm Đạo Sư Lưỡng Túc Tôn khiến hết thảy chúng sanh đoạn dứt bệnh phiền não, thọ các luật nghi.

Khi ấy người Trì Chú trao cho Vua Bất Không Quyến Sách Tâm Chú, Ấn Pháp rồi dẫn ra khỏi Đàn. Sau đó lần lượt dẫn các quyến thuộc của Vua, mỗi mỗi vào Đàn như Vua mà trao pháp. Làm việc này xong rồi Vua và quyến thuộc nên dùng tiền của, vật báu ban cho người Trì Chú rồi mới trở về cung.

Nếu làm Đàn cho quan thì dài rộng mười sáu khuỷu tay, trong Đàn có kết giới đạo, không được dùng vàng bạc, tùy theo sức dùng các màu sắc. Khi vẽ Chú Vương với các hình tượng thì như Đàn Pháp của Vua, nên để đồ ăn uống trong Đàn cúng dường.

Ở bốn mặt Đàn, mỗi mỗi để tràng phan, bốn bình Cát Tường đổ đầy nước để bốn phương. Người vào Đàn, trước tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới sạch, đốt các thứ hương thơm, rải hoa cúng dường.

Chỗ làm các Pháp đều như Đàn của Vua.

Nếu làm Dân Đàn thì dài rộng tám khuỷu tay. Ở trong Đàn vẽ tượng Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Chú Vương và Ấn văn, còn các hình khác không cần phải như Đàn của Vua và quan. Nếu vẽ Đàn thời dùng ba màu đỏ, vàng, trắng làm ba giới đạo.

Bình Cát Tường thì dùng đồng trắng hoặc đồng đỏ, hoặc bạc tùy sức mà làm. Bày biện hương hoa, tràng phan, lọng, các món ăn uống, trái cây để cúng dường. Người vào Đàn cần tắm gội thọ Giới. Vào ra Đạo Tràng hết thảy pháp tắc đều y như pháp của Vua, Đàn Tràng như vậy có lợi ích.

Đây đều do Đức Thế Tôn dùng phương tiện thiện xảo điều phục chúng sanh trang đêm dài sanh tử được giải thoát.

Nếu cầu Thanh Văn liền dùng Thanh Văn Thừa mà điều phục.

Nếu cầu Bích Chi Phật thì dùng Bích Chi Phật Thừa mà điều phục.

Nếu cầu Bồ Tát tức dùng Đại Thừa mà điều phục.

Nếu dùng Thần Chú bí mật như đây mà điều phục tức dùng Thần Chú phương thiện thiện xảo khiến vào đường lành cho đến Bồ Đề, cho nên đối với Thần Chú này nên cắt đứt nghi hoặc.

Nếu có thành tựu Thần Chú của Phật và Bồ Tát nói, người như vậy tức được quả Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Hoàn, A La Hán, quả Bích Chi Phật cho đến chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Cho nên vào Đàn này thành phước nghiệp lớn, đầy đủ trí tuệ thần thông túc mạng cho đến Thập Địa có các công đức thảy đều thành tựu, vượt hơn cảnh giới chúng Ma, điều phục oán địch, đoạn các chướng não cho đến năm nghiệp vô gián thảy đều tiêu diệt, vô lượng công đức thảy đều thành tựu.

***