Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn

PHẬT THUYẾT KINH BẤT KHÔNG

QUYẾN SÁCH THẦN BIẾN CHÂN NGÔN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
 

PHẨM HAI MƯƠI MỐT

PHẨM ĐÀ LA NI

CHÂN NGÔN BIỆN GIẢI THOÁT
 

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Vi Như Lai bảo Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Lành thay! Lành thay Liên Hoa Thủ!

Nay ông nói thần thông, công đức của Bất Tư Nghị Quán Đà La Ni Chân Ngôn thuộc thế gian xuất thế gian này rất ư hiếm có. Ta đã biết Tối Thượng Bí Mật Tâm Quán Đà La Ni Chân Ngôn này mới là nơi Đại Du Hý, công đức, thần thông của tất cả Như Lai, tất cả hàng Bồ Tát Ma Ha Tát.

Lại là tôn chỉ của tất cả hữu tình, nơi chốn của con đường tối thượng không có gì ngang bằng tối thượng vô đẳng đẳng đạo, con đường vô lượng vô tận vô lượng vô tận đạo ở quá khứ hiện tại vị lai.

Thần Thông, công đức của Đà La Ni này rất ư thâm thùy, rất hiếm, khó có được… hay khiến cho tất cả hữu tình trong ba cõi vượt qua biển sinh tử.

Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, Tộc tính nam nữ thọ trì, đọc tụng thì người này tức đã xưng trì Nhất Thiết Như Lai Quảng Đại Thần Biến Chân Thật Giải Thoát Đàn.

Ấn Tam Muội Gia. Tỳ Lô Giá Na Như Lai Chân Thật Thần Thông Gia Trì Quảng Đại Giải Thoát Đàn Ấn Tam Muội Gia. Rộng gieo trồng vô lượng căn lành phước đức, tương ứng nhiếp thọ.

Nếu lại có người đã từng cung kính, cúng dường, thừa sự tất cả Như Lai trong chín mươi hai căng già sa câu chi na dữu đa trăm ngàn vi trần cõi nước, lắng nghe nơi pháp, được thọ ký. Đem so sánh với thọ trì, đọc tụng Đà La Ni Chân Ngôn này thì công đức đã được ngang bằng không có khác.

Tại sao thế?

Vì Đà La Ni Chân Ngôn này tôn diệu, kỳ đặc rất khó thấy nghe, có đủ vô lượng thần thông, công đức.

Nếu có Bật Sô, Bật Sô Ni, tộc tính Nam Nữ thủ trì tịnh giới, tinh tiến dũng mãnh, chân thành chế ngự thân tâm, đối với các hữu tình khởi tâm đại bi, buông bỏ thân phần, châu báu, lúa đậu, lụa là của mình.

Nơi nơi tìm cầu Chân Ngôn Kinh này, như pháp viết chép, ba mươi sáu tháng y thep pháp làm Đàn, ngày đêm sáu thời thọ trì, đọc tụng Mẫu Đà La Ni Chân Ngôn, Phấn Nộ Vương Chân Ngôn, Phổ Biến Tâm Ấn Chân Ngôn, Bất Tư Nghị Quán Đà La Ni Chân Ngôn. Kết Ấn, quán đỉnh như pháp quán bày thì người này gọi là mọi loại căn lành khổ hạnh khó hành trong vô lượng kiếp.

Tại sao thế?

Vì Ta đã biết Đà La Ni Chân Ngôn này mới là Vô Lượng Vô Biên Vô Thượng Vô Đẳng Tam Miệu Tam Phật Đà Thần Thông công đức của tất cả Như Lai.

Này Liên Hoa Thủ! Nếu có người thọ trì, phát tâm bồ đề, quán chiếu năm uẩn, nhãn giới, sắc giới cho đến thức giới, mười hai nhân duyên, tự tính rỗng lặng… lìa cái ta, tướng của ta. Lìa tướng hữu tình, lìa tướng thọ giả, lìa tất cả tướng.

Tại sao thế?

Vì pháp từ xưa nay tính tự vắng lặng: Không có cái ta vô ngã, không có tạo làm vô tác, không có tự mình vô tự, không có điều khác vô tha, lìa các uẩn giới. Chân thật quán sát uẩn, nhập, giới này chẳng thể đắc, cho nên không có tự nhận thức, chẳng thể cầm nhận. Nơi đã cầm nhận này cũng chẳng thể đắc.

Tại sao thế?

Vì tất cả pháp vốn không có màu sắc, không có hình, lìa các nhiễm dính. Tâm chặng trụ bên trong, bên ngoài, khoảng giữa hai bên. Bên trong, bên ngoài, khoảng giữa hai bên cũng chẳng thể đắc… vốn tự thanh tịnh, bình đẳng, không có hai. Bông bỏ, không có cái ta thì tâm chủ tự tại, hiểu tâm vốn chẳng sinh.

Tại sao thế?

Vì bờ mé lúc trước, khoảng giữa, lúc sau của tâm chẳng thể đắc. Như vậy biết tâm vượt qua khỏi thế gian, chỉ có cảnh giới căn bản vô ngã của pháp tạm lưu lại… tu hành, chặt cắt nhổ bứt cội rễ vô minh phiền não, thấy pháp thân thanh tịnh lặng trong vắng lặng.

Bên trong quán chữ La: RA tỏa ánh sáng như mặt trời, tịnh trị ba độc, tất cả cấu chướng, rộng nghiêm đạo trường, các lỗi lầm trong đất như tướng hư không.

Bên dưới nơi Kim Cương trì giữ, quán Phong Luân tỏa lửa sáng màu đen đáng sợ.

Ở trên Phong Luân quán Thủy Luân ấy, nước có màu giống như sữa, bên trong quán chữ Tông: VAṂ tỏa ánh sáng vượt hơn Mặt Trăng.

Ở trên Thủy Luân quán cái Đàn màu vàng ròng, tỏa lửa sáng, sáng tỏ bày khắp chiếu soi. Ở bên trong quán hoa sen tám cánh báu màu trắng, Kim Cương làm cọng, mọi báu làm tua nhụy, phóng vô lượng ánh sáng, vô lượng trăm ngàn hoa sen báu tạo trước sau vây quanh.

Trên đài sen ấy quán tòa Sư Tử với mọi báu trang nghiêm, xếp bày giáp vòng mọi loại cây báu, bên trên có mọi loại lọng báu, phướng, phan, chuỗi ngọc, phất trần, các quần áo của Cõi Trời, ánh sáng chói lòa quán mọi mây báu… tuôn mưa khắp mọi loại hương xoa bôi, hương bột, mọi hoa báu màu nhiệm nghiêm khiết đất của Đàn Trường.

Đánh trống, tấu mọi loại các âm nhạc của Cõi Trời, Bình báu Như Ý, nước hương Át Già, hoa cây báu nở bày đèn ánh sáng Ma Ni, hoa màu nhiệm của Phật Ba La Mật Bồ Đề, pháp âm ca bái của tất cả Bồ Tát trang nghiêm đầy đủ tòa Sư Tử.

Ở trên tòa ấy quán y tự môn: A hiện thân Tỳ Lô Giá Na Như Lai màu Đàn Kim, hoặc màu bạc trắng, ngồi kiết già, trên thân phóng khắp lửa sáng màu vàng ròng hoặc ánh sáng màu trắng. Bên trong lửa ánh sáng ấy thấy tất cả, ở trong ánh sáng ấy lại hiện tất cả Chư Phật nhiều như số bụi nhỏ trong vô lượng cõi nước, tỏa ánh sáng chiếu khắp vô lượng cõi hữu tình, tùy theo tính khai ngộ.

Trên trái tim của Tỳ Lô Giá Na Như Lai quán vầng trăng lớn tỏa ánh sáng trắng nõn trong suốt.

Đường viền tròn trịa bày một trăm chữ Y: A, mỗi một chữ tỏa ánh sáng màu vàng ròng, xoay chuyển đi.

Quán mỗi một chữ này biến thân, hiện ra vô lượng thân Phật với tướng tốt, ánh sáng, thần thông tự tại tràn đầy tất cả Thế Giới ở mười phương. Bô lượng Đức Phật này lại nhiễu quanh theo bên phải nhập vào trong thân, hợp làm một thân.

Bên trái quán Phộc tự môn: VA hiên thân Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ Bồ Tát tỏa lửa sáng tròn trịa, ngồi kiết già tại tòa báu trên hoa sen.

Bên trái quán sai tự môn: SA hiên thân Quán Thế Âm Bồ Tát tỏa lửa sáng tròn trịa, ngồi kiết già tại tòa báu trên hoa sen.

Trước sau vây quanh quán chiếu tất cả thân Chủng Tộc Bồ Tát Ma Ha Tát tỏa lửa sáng tròn trịa, ngồi kiết già tại tòa báu trên hoa sen.

Bên phải Quán Thế Âm quán người trì Chân Ngôn.

Tự thân như pháp mà ngồi, dùng Thần Lực của Đức Phật, dùng sức của pháp giới, quán khắp cúng dường. Tụng Phấn Nộ Vương Chân Ngôn, Quảng Đại Minh Vương Ương Câu Xả Chân Ngôn, Mẫu Đà La Ni Chân Ngôn, Tất Địa Vương Chân Ngôn, Nhất Thiết Bồ Tát Kính Lễ Giải Thoát Tam Muội Gia Chân Ngôn… tướng âm thanh của mỗi một tự môn như tướng Quán Thế Âm, xoay múa Ấn ấy.

Như vậy quán chiếu tu các thiện pháp, giết nghiệp bất thiện được thiện vô úy. Như vậy quán bày được thân vô úy. Buông bỏ uẩn tập của mình được ngã vô úy. Hại duyên bám níu của uẩn được pháp vô úy. Hại pháp trụ duyên được pháp vô ngã vô úy. Hai các uẩn giới, năng chấp, sở chấp được tự tính vô tính bình đẳng vô úy.

Người làm sự tu hành này gọi là trụ hình tướng pháp thân của Như Lai cùng với tam muội đều là chân phát tâm. Dùng chút công dụng được thành tựu lớn. Như nhân vào mặt trăng hiện chiếu trong nước lắng trong mà thấy hình tượng mặt trăng.

Như trời tuôn mưa thì mầm của hạt giống nảy sinh. Như tàn lửa xoay vần trong hư không thì hiện hình tượng vòng lửa. Ba việc như vậy ví dụ cho câu Chân Ngôn, quán bày thành tựu.

Tại sao thế?

Vì từ pháp tính nói mọi loại đạo, văn từ, chương cú… từ sức nguyện trí, pháp giới gia trì, tùy theo chủng loại của tính hữu tình mà mở bày.

Này Liên Hoa Thủ! Tướng Đại Thừa của Tam Miệu Tam Phật Đà là các Văn Tự Đà La Ni Chân Ngôn Môn.

Lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Thế nào là Văn Tự Đà La Ni Chân Ngôn Môn?

Đức Phật bảo Liên Hoa Thủ: tính bình đẳng của chữ tự, tính bình đẳng của tiếng nói ngữ, tính bình đẳng của lời nói ngôn, nhập vào tất cả tự môn của Đà La.

Ni Chân Ngôn, dùng không có chỗ đắc được vô sở đắc mà làm phương tiện.

Nhập vào Y tự môn A thì hiểu tất cả pháp vốn chẳng sinh.

Nhập vào Ca tự môn KA thì hiểu tất cả pháp lìa tác nghiệp.

Nhập vào Khư tự môn KHA thì hiểu tất cả pháp ngang bằng với hư không chẳng thể đắc.

Nhập vào Nga tự môn GA thì hiểu tất cả pháp, tất cả hành chẳng thể đắc.

Nhập vào Già tự môn GHA thì hiểu tất cả pháp nhất hợp chẳng thể đắc.

Nhập vào Lạc tự môn RAḤ thì hiểu tất cả pháp lìa bụi dơ.

Nhập vào Bả tự môn PA thì hiểu tất cả pháp đệ nhất nghĩa giáo chẳng thể đắc.

Nhập vào Giả tự môn CA thì hiểu tất cả pháp không có sống chết.

Nhập vào Na tự môn NA thì hiểu tất cả pháp lìa tướng tên gọi danh tự chẳng thể đắc.

Nhập vào Xả tự môn CHA thì hiểu tất cả pháp ảnh tượng chẳng thể đắc.

Nhập vào Bạc tự môn BHAḤ thì hiểu tất cả pháp xuất thế gian cho nên nhân duyên của sự yêu thương ái vĩnh viễn chẳng hiện.

Nhập vào Hồng Nhược tự môn HŪṂ JAḤ thì hiểu tất cả pháp sinh chẳng thể đắc.

Nhập vào Đô tự môn JHA thì hiểu tất cả pháp chiến địch chẳng thể đắc.

Nhập vào Đà tự môn DA thì hiểu tất cả pháp điều phục tịch tĩnh, chân như bình đẳng không có phân biệt.

Nhập vào Bà tự môn thì hiểu tất cả pháp tất cả hữu tình lìa sự cột trói.

Nhập vào Trà tự môn ḌHA thì hiểu tất cả pháp cầm giữ thanh tịnh chẳng thể đắc.

Nhập vào Sắt Tra tự môn ṢṬA thì hiểu tất cả pháp chế phục, nhận giữ, sai khiến áp bức, tính tướng của mạn chẳng thể đắc.

Nhập vào Tha tự môn ṬHA thì hiểu tất cả pháp nuôi lớn trưởng dưỡng chẳng thể đắc.

Nhập vào Noa tự môn ḌA thì hiểu tất cả pháp oán đối chẳng thể đắc.

Nhập vào Phộc Lộ tự môn VALGU thì hiểu tất cả pháp chặt đứt đường ngôn âm.

Nhập vào Đả tự môn TA thì hiểu tất cả pháp chân như trú xứ chẳng thể đắc.

Nhập vào Dã Gia tự môn YA thì hiểu tất cả pháp tất cả thừa như thật chẳng sinh chẳng thể đắc.

Nhập vào Đát Ninh Dã Tha tự môn TADYATHĀ thì hiểu tất cả.

Pháp trú xứ chẳng thể đắc.

Nhập vào Đà tự môn DHA thì hiểu tất cả pháp pháp giới chẳng thể đắc.

Nhập vào Biều tự môn BHYAḤ thì hiểu tất cả pháp thời bình đẳng tính chẳng thể đắc.

Nhập vào Ma tự môn MA thì hiểu tất cả pháp ngã sở tính chẳng thể đắc.

Nhập vào Phả tự môn. PHA thì hiểu tất cả pháp mà chẳng chắc thật như nhóm bọt nổi.

Nhập vào Ma tự môn BA thì hiểu tất cả pháp nơi cột buộc chẳng thể đắc.

Nhập vào Nhạ tự môn JA thì hiểu tất cả pháp sinh khởi chẳng thể đắc.

Nhập vào Thấp Phộc tự môn SVA thì hiểu tất cả pháp tính an ổn chẳng thể đắc.

Nhập vào La tự môn RA thì hiểu tất cả pháp lìa tất cả bụi nhiễm.

Nhập vào La tự môn LA thì hiểu tất cả pháp tất cả tướng chẳng thể đắc.

Nhập vào Kiến tự môn GAṂ thì hiểu tất cả pháp giới tính chẳng thể đắc.

Nhập vào Xả tự môn ŚA thì hiểu tất cả pháp tính vắng lặng tịch tĩnh tính chẳng thể đắc.

Nhập vào Khư tự môn KHĀ thì hiểu tất cả pháp tính như hư không chẳng thể đắc.

Nhập vào Nhật tự môn KṢA thì hiểu tất cả pháp tính cùng tận chẳng thể đắc.

Nhập vào Đá tự mônthì hiểu tất cả pháp nhận giữ xứ, phi xứ khiến chẳng động chuyển tính chẳng thể đắc.

Nhập vào Hột Lợi Nghiệt Bà tự môn HRĪḤ GARBHA thì hiểu tất cả pháp nơi tính biết rõ chẳng thể đắc.

Nhập vào Lạt Tha tự môn RTHA thì hiểu tất cả pháp tính chấp dính nghĩa chẳng thể đắc.

Nhập vào Khả tự môn HA thì hiểu tất cả pháp tính của nhân chẳng thể đắc.

Nhập vào Bá tự môn BHA thì hiểu tất cả pháp tính phá hoại chẳng thể đắc.

Nhập vào Củ tự môn CCHU thì hiểu tất cả pháp tính dục lạc che trùm chẳng thể đắc.

Nhập vào Tắc Ma tự môn SMA thì hiểu tất cả pháp tính có thể nghĩ nhớ chẳng thể đắc.

Nhập vào Đỏa Phộc tự môn TVA thì hiểu tất cả pháp tính có thể hô triệu chẳng thể đắc.

Nhập vào Sai tự môn TSA thì hiểu tất cả pháp tính cứng mạnh dũng kiện tính chẳng thể đắc.

Nhập vào Án tự môn OṂ thì hiểu tất cả pháp tính hậu bình đẳng chẳng thể đắc.

Nhập vào Đệ tự môn DHI thì hiểu tất cả pháp tính tích tập chẳng thể đắc.

Nhập vào Ê Hề Duệ Hứ tự môn EHYEHI thì hiểu tất cả pháp lìa tất cả sự tranh giành ồn ào, không có qua lại, đi đứng ngồi nằm chẳng thể đắc.

Nhập vào Phả tự môn PHA thì hiểu tất cả pháp đầy khắp quả báo chẳng thể đắc.

Nhập vào Tắc Ca tự môn SKA thì hiểu tất cả pháp tính gom chứa chồng chất chẳng thể đắc.

Nhập vào Dật Sa tự môn YSA thì hiểu tất cả pháp tính già yếu chẳng thể đắc.

Nhập vào Chá tự môn YSA thì hiểu tất cả pháp tụ tập chứa đủ chẳng thể đắc.

Nhập vào Bá tự môn ḌHA thì hiểu tất cả pháp nơi chốn cứu cánh chẳng thể đắc.

Nhập vào Nga Noa Na Ma Hồng Phấn Toa Phộc Ha tự môn ṄA ṆA NA MA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ thì hiểu tất cả.

Tam Muội Gia đều hay tự tại, mau hay thành biệt Nhất Thiết Sự Tam Muội Gia Nghĩa Lợi Tất Địa.

Này Liên Hoa Thủ! Tự môn Akṣara mukha như vậy, hiểu biết nhập vào bờ mé gốc rễ trong pháp, trừ các chữ như vậy nêu tỏ thì trong các pháp lại chẳng thể đắc.

Tại sao thế?

Này Liên Hoa Thủ! Nghĩa của chữ như vậy, chẳng thể tuyên nói, chẳng thể hiển bày, chẳng thể nắm lấy, chẳng thể viết giữ, chẳng thể quán nhận. Các tự môn này cũng lại như vậy, nghĩa lý của các pháp đều nhập vào môn này, mới được hiển hiện.

Này Liên Hoa Thủ! Nhập vào nhóm y tự môn. A như vậy thì gọi là nhập vào các tự môn. Nếu người tu trì như vậy thọ trì, nhập vào các tự môn được trí khéo léo. Đối với các ngôn âm hay giải thích, hay nêu tỏ đều không có trở ngại. Đối với tính trống rỗng bình đẳng bình đẳng không tính của tất cả pháp hay chứng trì hết. Đối với mọi ngôn âm đều được khéo léo.

Liên Hoa Thủ! Nếu người thọ trì, hay nghe như vậy nhập vào các tự môn, Ấn Tướng, Ấn Cú… nghe xong, thọ trì, đọc tụng, thông lợi. Vì người khác giải nói, chẳng dính danh lợi. Do nhân duyên này được hai mươi loại công đức thù thắng.

Nhóm nào là hai mươi?

Ấy là: Được nghĩ nhớ mạnh mẽ. Được tàm quý thù thắng. Được sức bền chắc. Được chỉ thú của pháp. Được Tăng Thượng Giác. Được Tuệ thù thắng. Được Vô Ngại Biện. Được Môn Tổng Trì. Được không có nghi hoặc.

Được tiếng nói thuận nghịch, chẳng sinh yêu ghét. Được không có cao thấp, trụ trong bình đẳng. Được đối với hữu tình có ngôn âm khéo léo. Được uẩn thiện xảo xứ. Được duyên khởi khéo léo, nhân khéo léo, duyên khéo léo.

Được căn thắng liệt trí khéo léo, tha tâm trí khéo léo. Được quán chiêm tinh lịch khéo léo. Được thiên nhĩ trí khéo léo, túc trụ tùy niệm trí khéo léo, thần cảnh trí khéo léo, tử sinh trí khéo léo. Được lậu tận trí khéo léo. Được Thuyết xứ phi xứ trí khéo léo. Được Vãng Lai Đẳng Uy Nghi Lộ khéo léo.

Này Liên Hoa Thủ! Đây là hai mươi loại công đức thù thắng.

Nếu người trì Chân Ngôn, khi hành Đà La Ni Chân Ngôn thời dùng không có chỗ đắc vô sở đắc mà làm phương tiện cho nơi được sở đắc Văn Tự Đà La Ni Môn.

Nên biết đây là Bồ Tát Ma Ha Tát cung kính, đỉnh lễ: Xuất Thế Quảng Đại Giải Thoát Đà La Ni Chân Ngôn Tối Thượng Thần Biến Giải Thoát Đàn Ấn Tam Muội Gia. Xuất Thế Quảng Đại Giải Thoát Liên Hoa Mạn Noa La Tượng Tam Muội Gia. Đại Thừa Tướng Tam Muội Gia. Tối Thượng Thừa Tướng Tam Muội Gia.

Này Liên Hoa Thủ! Người thọ trì này trụ bốn niệm trụ.

Nhóm nào là bốn?

Một là: Thân niệm trụ, hai là thọ niệm trụ, ba là tâm niệm trụ, bốn là pháp niệm trụ… tu hành Đà La Ni Chân Ngôn, dùng không có chỗ đắc vô sở đắc mà làm phương tiện.

Tuy ở bên trong, thân Kāya trụ tuần thân quán Kāya anupaśyanā: Thân niệm xứ quán. Tuy ở bên ngoài, thân trụ tuần thân quán. Tuy ở bên trong bên ngoài, thân trụ tuần thân quán.

Tuy ở bên trong, cảm giác Vedana: Thọ, trụ tuần thọ quán Vedanaanupaśyanā: Thọ niệm xứ quán. Tuy ở bên ngoài cảm giác thọ trụ tuần thọ quán. Tuy ở bên trong bên trong, cảm giác thọ trụ tuần thọ quán.

Tuy ở bên trong, Tâm Citta trụ Tuần Tâm Quán Citta anupaśyanā: Tâm niệm xứ quán. Tuy ở bên ngoài, tâm trụ tuần tâm quán. Tuy ở bên trong bên ngoài, Tâm Citta trụ Tuần Tâm Quán.

Tuy ở bên trong, pháp Dharma trụ tuần pháp quán Dharma anupaśyanā: Tâm niệm xứ quán. Tuy ở bên ngoài, pháp trụ tuần pháp quán. Tuy ở bên trong bên ngoài, pháp trụ tuần pháp quán.

Mà lại chẳng khởi thân câu, thọ câu, tâm câu, pháp câu… tìm tòi suy nghĩ, sáng tỏ, tinh tiến, niệm đủ, biết chánh đúng. Vì muốn điều phục sự tham lam, lo lắng của đời cho nên người thọ trì này tu bốn niệm trụ xứ.

Này Liên Hoa Thủ! Người tu như vậy, nên biết người này lại ngang bằng với lúc ta Đức Phật phát nhân địa đầu tiên làm Bồ Tát thời tu hành mọi loại khổ hạnh, căn lành, thành tựu A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Địa, ngồi tòa Kim Cương, chuyển bánh xe đại pháp…công đức không có khác.

Người này tức gọi là Rộng gieo trồng vô lượng đại phước đức uẩn thiện căn tương ứng, sẽ được Xuất Thế Thành Tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Quán Thế Âm Bồ Tát thường âm thầm gia hộ, dùng bàn tay xoa đầu rồi hiện ra trước mặt, ban cho Bất Tư Nghị Quán Đà La Ni Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia. Công đức rộng lớn, khen ngợi căn lành.

Đà La Ni Tam Ma Địa như vậy, nếu một lần nghe qua lỗ tai, cũng sẽ được sinh về cõi nước Cực Lạc, ở trước mặt Đức Phật A Di Đà, hóa sinh trong hoa sen, dùng các tướng tốt mà tự trang nghiêm.

Tất cả Kinh Pháp, Chân Ngôn, Đàn, Ấn, Tam Muội Gia… thảy đều chứng hiện, sáu căn thanh tịnh, đủ túc trụ trí, được năm thần thông. Chánh vì thế cho nên người trí ngày đêm tinh cần, thọ trì, đọc tụng, đừng khiến lười biếng, hối tiếc nơi pháp.

Nên khởi tâm đại bi bình đẳng thương xót, vì các hữu tình mà rộng diễn bày Đà La Ni Đàn Ấn Tam Muội Gia này, khắp cả được thầy nghe, viết chép, tu học, đọc tụng, thọ trì, khiến được xuất thế.

Nếu có hữu tình lừa dối, ganh ghét… dọc tụng, thọ trì. Hoặc có hữu tình hoảng sợ mọi loại khủng bố, tai ách… đọc tụng, thọ trì.

Nhón người như vậy cũng được vô lượng đại phước tụ uẩn, huống chi là người dùng tâm bồ đề, viết chép, đọc tụng, thọ trì, cúng dường… mà há chẳng chứng thần thông công đức của Bồ Tát Thập Địa ư?

***