Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn

PHẬT THUYẾT KINH BẤT KHÔNG

QUYẾN SÁCH THẦN BIẾN CHÂN NGÔN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
 

PHẨM NĂM MƯƠI

PHẨM ĐẠI PHẤN NỘ

VƯƠNG CHÂN NGÔN HỘ TRÌ
 

Tẩy Dục Chân Ngôn:

Án nhĩ ma la thuật đễ, hồng.

OṂ. VIMALA ŚUDDHE HŪṂ.

Tịnh Thân Chân Ngôn:

Án sai mạn đa bá lý cật sa ca ngộ hứ dã, đà lệ giả la giả la, hồng.

OṂ. SAMANTA PARĪKṢAKA GUHYA DHĀRE. CALA CALA HŪṂ.

Tịnh Tô Nhũ Lạc Chân Ngôn:

Án y mộ già bá xả, thuật đễ, hồng.

OṂ. AMOGHA PĀŚA ŚUDDHE HŪṂ.

Kết Lạc Bạc Sách Chân Ngôn:

Án than noa bá than na tố tán nại, đả mãn đễ, hồng.

OṂ. ŚAṆḌA PĀṢAṆḌA SU DAṆḌA TAMĀṂTĪ HŪṂ.

Kết Phát Kế Chân Ngôn:

Án ma nê, nhập phộc la thủy khế, hồng.

OṂ. MAṆI JVALA ŚIKHE HŪṂ.

Tẩy Thủ Diện Chân Ngôn:

Án sai mạn đa, bá lý thuật đễ, hồng.

OṂ. SAMANTA PARIŚUDDHE HŪṂ.

Tịnh Trị Thủy Chân Ngôn:

Án y nhĩ lật đa nhạ lệ, hồng.

OṂ. AMṚTA JALE HŪṂ.

Tịnh Y Trước Y Chân Ngôn:

Án sai mạn đa, xả đà nỉ đổ lỗ đổ lỗ, hồng.

OṂ. SAMANTA SĀDHANE. DHURU DHURU HŪṂ.

Hộ Thân Chân Ngôn:

Án sai mạn đa, lạc cật sa nhĩ lý nhĩ lý, hồng.

OṂ. SAMANTA RAKṢA. MILI MILI HŪṂ.

Kết Ngoại giới Chân Ngôn: Án tố lỗ tố lỗ, hồng.

OṂ. SURU SURU HŪṂ.

Kết Nội giới Chân Ngôn: Án ma ha mạn noa lệ, hồng.

OṂ. MAHĀ MAṆḌALE HŪṂ.

Cúng Dường Hoa Chân Ngôn:

Án y mộ già, bổ sáp ba bả la phộc lệ, hồng.

OṂ. AMOGHA PUṢPA PRAVARA HŪṂ.

Cúng Dường hương Chân Ngôn:

Án tắc phổ nhứ, kiện đễ tắc phổ la, hồng.

OṂ. SPHOṬA GANDHE SPHURA HŪṂ.

Đồ hương Chân Ngôn:

Án ninh cát ma la thuật đễ, hồng.

OṂ. NIRMALA ŚUDDHE HŪṂ.

Thiêu hương Chân Ngôn:

Án sai mạn đa, phộc bà sa bát đầu mễ, hồng.

OṂ. SAMANTĀVABHĀṢA PADME HŪṂ.

Lễ Bái Chân Ngôn:

Án trất lệ duệ địa ma ha mộ già bả la noa ma, hồng.

OṂ. TRI YADHVA MAHĀ AMOGHA PRAṆĀMA HŪṂ.

Hành Đạo Chân Ngôn:

Án sai mạn đa bá lý ca lệ, hồng.

OṂ. SAMANTA PARIKARE HŪṂ.

Hợp Chưởng Cúng Dường Chân Ngôn:

Án tát phộc đả tha nga đá bạt nhật la nhạ lý sai ma duệ, hồng.

OṂ. SARVA TATHĀGATA VAJRĀṂJALI SAMAYE HŪṂ.

Mỗi Thời Nhập Đàn Chân Ngôn:

Án tát phộc đả tha nga đá mộ già mạn noa la bả la bễ xả dã, hồng.

OṂ. SARVA TATHĀGATA AMOGHA MAṆḌALA PRA VEŚAYA HŪṂ.

 Thụ Giáo Chân Ngôn:

Án y mộ già, sai ma gia nhĩ bổ la bát đầu mễ, hồng.

OṂ. AMOGHA SAMAYA VIPULA PADME HŪṂ.

Gia Trì Đệ Tử Chân Ngôn:

Án y mộ già, đố sử gia thấp phộc sai dã, hồng.

OṂ. AMOGHA TUṢYA ŚVĀSAYA HŪṂ.

Sổ Châu Chân Ngôn:

Án y mộ già, bát đầu nhĩ nễ bả la vạt đả dã, hồng.

OṂ. AMOGHA PADMINI PRAVARTTĀYA HŪṂ.

Tích Trượng Táo Quán Chân Ngôn:

Án na già, bộ phộc nễ bát la sa la nhĩ lật đế, hồng.

OṂ. NĀGA BHUVANE PRASARA AMṚTE HŪṂ.

Kết Bác Anh Lạc Chân Ngôn:

Án y mộ già, bá nhĩ đát la mục khế, hồng.

OṂ. AMOGHA PAVI TRA MUKHE HŪṂ.

 Kết Sách Chân Ngôn:

Án y mộ già, khất liên địa ma lý kê, hồng.

OṂ. AMOGHĀKRĀNTI MĀLIKE HŪṂ.

Nhất Thiết Khí Chân Ngôn:

Án y mộ già, sai một nại la sai lệ, hồng.

OṂ. AMOGHA SA MUDRĀ SĀRE HŪṂ.

An Tọa Chân Ngôn:

Án y mộ già, bạt nhật la bát đầu mang sai na ma địa sắt như bả dã, hồng.

OṂ. AMOGHA VAJRA PADMĀSANAM ADHIṢṬHĀBHAYA HŪṂ.

Quán Đỉnh Chân Ngôn:

Án chấn đà ma nê y mộ già, tỳ sái ca tỳ săn giả, hồng.

OṂ. CINTĀMAṆI AMOGHA ABHIṢEKA ABHISIṂCA HŪṂ.

Thiết Hỏa Thực Chân Ngôn:

Án y mộ già, nhập phộc lệ ninh cát già đá dã tát phộc nhĩ khất na thiết đổ chỉ lý chỉ lý, hồng.

OṂ. AMOGHA NIRGHĀTAYA SARVA VIGHNA ĀŚITO. KILI KILI HŪṂ.

Thí Quỷ Thần Thực Chân Ngôn:

Án bả la bộ đa nhĩ ma lê tham bà phộc, hồng.

OṂ. PRA BHŪTA VIMALE SAṂBHAVA HŪṂ.

Át Già Bình Chân Ngôn:

Án bát đầu ma, ca la nê y mộ già, vạt đế, hồng.

OṂ. PADMA KALANE AMOGHA VATI HŪṂ.

Hiến hương Thủy Chân Ngôn:

Án y mộ già, ninh lập danh dã kiện đà bả la sa lệ, hồng.

OṂ. AMOGHA NITYA GANDHA PRASĀRE HŪṂ.

Thủy Bồn Chân Ngôn:

Án sai mạn đa bố la dã, hồng.

OṂ. SAMANTA PŪRAYA HŪṂ.

Hiến Ẩm Thực Chân Ngôn:

Án y mộ già, sai mạn đá tham bà phộc, hồng.

OṂ. AMOGHA SAMANTA SAṂBHAVA HŪṂ.

Triệu Thỉnh Chân Ngôn:

Án sai mạn đa, bộ phộc nê y mộ già ca lợi sa noa, hồng.

OṂ. SAMANTA BHUVANE AMOGHA ĀKARṢAṆA HŪṂ.

Khuyến Thỉnh Chư Phật Bồ Tát Chân Ngôn:

Án tát phộc đả tha nga đá bồ địa tát đỏa, bả lý thuật đà tắc phộc bà bà đỏa ma thuật đễ, tam bố la dã, hồng.

OṂ. SARVA TATHĀGATA BODHISATVA PARIŚUDDHE SVABHĀVA ĀTMA ŚUDDHE SAṂPŪRAYA HŪṂ.

Thỉnh Gia Trì Chân Ngôn:

Án y mộ già, tán để sắt nhứ đổ, hồng.

OṂ. AMOGHA SAṂ TIṢTHITO HŪṂ.

Tịnh Hỏa Chân Ngôn:

Án y mộ già, bả la phộc lệ tán nhập phộc la, bộ phộc nê sai la, hồng.

OṂ. AMOGHA PRAVARE SAṂ JVALA BHUVANE SĀRA HŪṂ.

Đăng Chân Ngôn:

Án y mộ già, ma nê nhập phộc la, nhập phộc la, hồng.

OṂ. AMOGHA MAṆI JVALA JVALA HŪṂ.

Tam Thời Chân Ngôn:

Án trất lý nhĩ cật la ma y mộ giả tán đình dạ bá ninh dã, hồng.

OṂ. TRI VIKRAMA AMOGHA SIDDHYA PĀṆYA HŪṂ.

Giáng Sứ Giả Chân Ngôn:

Án y mộ già, nhĩ lý củ trưng bật khoáng sai dã độ lỗ độ lỗ, hồng, phất.

OṂ. AMOGHA BHṚKUṬĪṂ VIDHVAṂSAYA. TURU TURU HŪṂ PHAṬ.

Giáng Chư Quỷ Thần Chân Ngôn:

Án y mộ già ca lý sa dã, hồng.

OṂ. AMOGHA ĀKARṢAYA HŪṂ.

Phát Khiển Chân Ngôn:

Án y mộ già, tam bố la nê bả la sai la nghiệt xả tắc phộc bà phộc nam y nhĩ lật đa bố lệ, hồng.

OṂ. AMOGHA SAṂ PŪRNE PRASĀRA AGACCHA SVABHĀVĀNĀṂ.

PŪRE HŪṂ.

Bạch Đức Thế Tôn! Chân Ngôn Tam Muội Gia như vậy ở trong tất cả Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia của Quán Thế Âm tùy theo các vật loại: Ba biến, năm biến gia trì làm pháp, liền mau chóng thành tựu không có các chướng ngại.

Bấy giờ, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Như Lai nghe nói, đọc tụng, thành tựu chân thật tất cả Bất Không Như Lai Bí Mật chủng tộc hội thông với tất cả Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia, pháp tính bí mật, tính không có hý luận, pháp Đại Lạc Bất Không Kim Cương, phương tiện khéo léo thành lập Thắng Trí, tất cả sự nghiệp điều phục thế gian.

Khắp cả ba cõi tự tại tối thắng Tam Muội Gia này mới ở trong tất cả Vô Thượng Bồ Đề Chân Thật Giải Thoát Đàn Ấn pháp chọn lựa ra, giải thích kỹ càng, làm cho người trì Chân Ngôn viên mãn thành tựu tất cả Bồ Đề.

Diệt các cái chướng Nếu Bật Sô, Bật Sô Ni, Tộc Tính Nam, Tộc Tính Nữ hay y theo pháp Môn Nhất Thiết Bất Không Như Lai Thậm Thâm Trí Ấn Thiện Kiến Lập Tính Kim Cương, dùng Tâm Đại Bi cung kính, cúng dường, thọ trì, đọc tụng, viết chép, giải nói.

Hoặc lại dạy bảo người viết chép, thọ trì, như pháp suy nghĩ, thanh tịnh tu hàng, không có tạm bỏ phế, thường y theo mỗi một Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia trong bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Tam Muội Gia như vậy, tùy theo Chân Ngôn pháp, mỗi mỗi làm pháp thì con Quán Thế Âm sẽ đi theo làm ủng hộ, làm cho trừ tội nặng cấu chướng từ vô thủy, làm cho mau hiện cùng với Bất Không tùy theo lượng, thành tựu pháp nguyện.

Bạch Đức Thế Tôn! Con thường chẳng buông bỏ người này, sẽ cho an trụ bất thoái chuyển địa, cho đến nơi A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề chuyển bánh xe pháp.

Con thường thừa sự, yêu thích người này cũng như A Nan Ānanda thừa sự Đức Như Lai không có tạm lười biếng. Như vậy thừa sự cho đến Niết Bàn Nirvāṇa, thu lấy Xá Lợi Śarīra, hết sức dùng bảy báu dựng tháp Xá Lợi, đem các hoa, hương, mọi loại phướng, phan, lọng báu, quần áo… thường làm cúng dường, không có lúc đoạn tuyệt.

Thế Tôn! Con đối với người này: Yêu thích, tôn trọng, quán nhìn, cúng dường như vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người Chiên Trà La Caṇdāla thọ trì pháp này: Chẳng biết ân nghĩa, bên ngoài tỏ bày hiền thiện, bên trong thực hành hủ bại, trộm cắp tất cả Đà La Ni Chân Ngôn Đàn Ấn Tam Muội Gia, ngã mạn, cao ngạo không có Tâm Bồ Đề, chẳng giữ Tịnh giới.

Chẳng trụ từ bi, lừa dối, ganh ghét trợ nhau chế diễu khinh thường, chê bai phỉ báng tất cả Đà La Ni Chân Ngôn Đàn Ấn Tam Muội Gia, cũng chẳng đủ niềm tin vào Đà La Ni Chân Ngôn Đàn Ấn Tam Muội Gia này. Như nhóm người này thật là dòng giống Ác tộc Chiên Trà La.

Thế Tôn! Người Chiên Trà La như vậy thì con dùng mọi loại phương tiện, Thần Lực muốn cứu thoát người này chút ít ách nạn, nhưng không thể cứu giúp được. Do nhân duyên này nên tu chẳng thành, đấy chẳng phải là lỗi của con.

Bạch Đức Thế Tôn! Lại có Bật Sô, Bật Sô Ni, các tộc Tính Tử: Thân ý yên tịnh lặng lẽ trì Như Lai giới, thấy chính đúng, tin chính đúng Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Quảng Đại Giải Thoát Liên Hoa Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia này, đầy đủ y theo mọi pháp.

Không có các tâm ganh ghét, ngày đêm tinh cần thọ trì, đọc tụng luôn chẳng đoạn tuyệt… thì con Quán Thế Âm tùy theo yêu thích, đưa vai gánh vác người này luôn chẳng buông lìa, pháp mà tâm đã mong cầu đều làm cho trọn đủ.

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai khen Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Lành thay! Lành thay đấng Đại Bi! Ông phát nguyện này là nguyện tối thượng. Nguyện như vậy thì ông nên vì thế gian độ thoát tất cả hữu tính đều khiến cho an trụ A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Địa.

Khi ấy, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ, tất cả quyến thuộc, Mạn Noa La Thần, Tứ Thiên Vương Thần, tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, A Tố Lạc, Nghiệt Lỗ Trà, Khẩn Na La, Ma Hô La Già, Người, Phi Nhân…

Cùng một lúc chắp tay, chiêm ngưỡng, đồng thanh khen ngợi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát là: Lành tháy lành thay Đấng Đại Bi! đại chúng chúng tôi đồng ở thế gian đi theo Tôn Giả Ayuṣmat cung kính, cúng dường Bất Không Quyến Sách Tâm Vương Đà La Ni Chân Ngôn Quảng Đại Giải Thoát Liên Hoa Mạn Noa La Ấn Tam Muội Gia này.

Pháp này chân thật là Nhất Thiết Như Lai chủng tộc Hội Thông Tam Muội Gia. Chúng tôi đều hay thường siêng năng y theo pháp thọ trì, đọc tụng, viết chép, lắng nghe, cung kính, cúng dường, cầu Đại Thành Tựu, chủ yếu khiến cho chẳng đứt đoạn.

Nếu thấy có người thường y theo pháp thọ trì, đọc tụng, cung kính, cúng dường thì chúng tôi thường trợ giúp cho thành tựu tựu pháp.

Bạch Thánh Giả! Chúng tôi biết ơn chứ chẳng phải là chẳng biết, cho nên dùng tâm bền chắc nguyện thủ hộ lâu dài, chẳng buông bỏ pháp này.

Lúc đó, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát bảo các đại chúng: Lành thay! Lành thay! Các ngươi hay phát nguyện rất tinh tiến này hộ trì pháp này. Pháp này chân thật là Nhất Thiết Như Lai chủng tộc Hội Thông Tam Muội Gia.

Bấy giờ, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ, tất cả quyến thuộc nghe pháp xong thì vui vẻ, chắp tay, xoay nhiễu quanh rồi từ giã quay về cung của mình.

***