Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bát Nê Hoàn

 

PHẬT THUYẾT

KINH BÁT NÊ HOÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Pháp Thiên, Đời Tống
 

PHẦN HAI
 

Những gì là năm:

1. Phật xuất hiện giáo hóa khắp mọi nơi chốn, kể cả các hàng Đế Thích, Phạm Vương, Sa Môn, Phạm Chí, Rồng, Thần, Đế Vương.

Dùng trí huệ tự nhiên, thể hiện sự chứng đắc nơi thế gian, khai mở, giảng nói đạo chân thật, lời nói đầu cũng thiện, lời nói giữa, lời nói cuối đều cũng thiện, đầy đủ ý nghĩa thiết yếu, thanh tịnh, rốt ráo. Tất cả đều được diễn đạt rõ ràng. Đó là pháp tự nhiên khó có được thứ nhất.

2. Phật nói Kinh cho khắp mọi đối tượng, người nghe đều hoan hỉ, tin học, đọc tụng, khiến cho thân, miệng, ý được đoan nghiêm bỏ tà theo chánh. Đó là pháp tự nhiên khó có được thứ hai.

3. Dân chúng khắp nơi nghe Kinh pháp của Phật, tâm ý được khai mở, tư duy càng sâu xa, đều đạt được trí huệ sáng suốt. Đó là pháp tự nhiên khó có được thứ ba.

4. Muôn người nghe lời chỉ dạy của Phật, phần nhiều đều tôn kính, thực hiện, nhờ đấy thoát khỏi ba cõi ác, sanh nơi Cõi Trời, người, đạt được lợi ích lớn. Đó là pháp tự nhiên khó có được thứ tư.

5. Muôn người được nghe giáo pháp thâm diệu, uyên áo của Phật, hiểu được nguồn gốc, duyên cớ của sanh tử, đoạn trừ hẳn tham dục, đều được giải thoát.

Hạng tinh tấn thứ nhất đạt được đạo quả Ứng Chân, hạng tinh tấn thứ nhì thì được đạo quả Bất Hoàn, hạng tinh tấn thứ ba được đạo quả Tần Lai, hạng tinh tấn thứ tư thì được đạo quả Câu Cảng. Đó là pháp tự nhiên khó có được thứ năm.

Phàm con người đối với Đức Phật phải có lòng nhớ tưởng đền đáp dù là cúng dường chút ít điều lành cũng đạt được phước lớn, không bao giờ là vô ích. Cho nên, này Tịnh Ký, hãy tự mình gắng sức học hỏi để đạt được điều ấy.

Đức Phật nêu dạy như vậy xong, các Ly Xa từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, chấp tay thưa: Chúng con muốn cung thỉnh Đức Phật và Thánh Chúng thọ trai, nhưng Nại Nữ đã thỉnh trước, mong rằng sau này chúng con sẽ được mời Đức Phật. Hiện nay chúng con có nhiều việc phải trở về, vậy chúng con xin cáo từ.

Đức Phật dạy: Nên biết thời. Khi ấy, các Ly Xa liền cung kính đảnh lễ Đức Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi ra đi.

Nại Nữ thì suốt đêm sửa soạn những món ăn đặc biệt, trang trí phòng ốc, buổi sáng sắp đặt chỗ ngồi, nằm, xong xuôi rồi đi đến bạch Đức Phật: Trai phạn đã dọn xong, mong Bậc Thánh biết thời. Đức Phật cùng các đệ tử đồng đi đến nhà Nại Nữ. Ngài an tọa chỗ ngồi cao trước đại chúng, Nại Nữ tự tay múc dọn, dâng cúng. Buổi thọ trai xong, Nại Nữ bưng nước rửa tay rồi lấy một cái ghế nhỏ ngồi trước Đức Phật, muốn hỏi pháp.

Đức Phật dạy: Đời ta nhờ ưa thích bố thí, về sau không hề có oán sợ, phần nhiều được tiếng khen, tiếng lành ngày một nhiều, được mọi người kính yêu.

Con người không keo kiệt, lấy nhân từ làm trí, như vậy là không bị cấu nhiễm, được an ổn, được sanh lên Cõi Trời, cùng được mọi an lạc với Chư Thiên. Đức Phật vì Nại Nữ thuyết giảng, chỉ dẫn pháp yếu, khiến tất cả đều hoan hỉ.

Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan cùng đi đến ấp Trúc Phương, dừng chân cạnh nơi rừng cây, phía Bắc thành. Năm ấy thôn Trúc Phương bị đói kém, lúa thóc khan hiếm.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Hiện nay ở đây đang lúc đói kém, việc khất thực khó khăn, các vị nên phân bổ đi đến các thôn xóm của các nước Duy Da và Việt Kỳ, có thể những nơi đó lúa thóc dồi dào hơn. Hãy nghe lời chỉ dẫn và thực hiện đi.

Đức Phật dạy: Này Tỳ Kheo! Nên biết pháp để tự chế ngự tâm ý, được điều lành không mừng, bị điều ác không buồn, việc ăn uống là để nuôi thân thể, chớ tham cầu đồ ngon, tham đắm mùi vị. Do ái dục tham cầu cho nên sanh tử không bao giờ chấm dứt.

Phàm biết giữ thân điều độ, tự mình chế ngự thì có thể đạt được tâm định. Đức Phật thuyết giảng cho các Tỳ Kheo nghe, chỉ bày pháp yếu, khiến cho tất cả đều vui mừng. Họ đảnh lễ rồi lui ra.

Các Tỳ Kheo phân chia đi đến các vùng lân cận, riêng Đức Phật và Hiền Giả A Nan thì cùng đi đến xóm Vệ Sa. Lúc này, Đức Phật bị bệnh, toàn thân đau nhức.

Đức Phật suy nghĩ: Hiện nay ta bị bệnh nặng, nhưng các đệ tử đều không có ở đây, ta hãy chờ tất cả trở về đông đủ, ta sẽ nhập Nê Hoàn. Vậy ta nên tự dùng lực tinh tấn để trị bệnh này, bằng cách nhập môn định không suy niệm về các tưởng. Ngài liền bằng tam muội chánh thọ như vậy mà tư duy, nhập môn định không suy niệm về các tưởng. Bằng tâm ý nhẫn nại này mà được tự tại.

Hiền Giả A Nan từ một gốc cây khác đứng dậy đi đến chỗ Đức Phật. Cúi lạy xong, đứng qua một bên, hỏi thăm về bệnh tình của Đức Phật có thuyên giảm chăng.

Tôn Giả thưa: Nghe Thánh thể bị bệnh, con thật sư vì thế mà lo và sợ.

Há chẳng phải Đức Thế Tôn muốn nhập Niết Bàn?

Cúi nguyện Thế Tôn có điều chỉ dạy chúng đệ tử.

Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Phật há có bao giờ cách biệt với chúng sao?

Ta luôn luôn ở trong chúng Tỳ Kheo. Những điều cần nêu bày chỉ dạy thì trước sau đối với Chúng Tăng ta đã giảng nói đầy đủ. Các vị hãy nên tinh tấn theo Kinh mà làm.

Nay ta bị bệnh toàn thân đau đớn, ta liền tư duy về môn định không suy niệm các tưởng, ý không gắn vào bệnh, cố gắng chịu đựng để chấm dứt cơn đau.

Này A Nan! Những gì ta đã thuyết giảng trong ngoài đều đầy đủ. Phật là Pháp Sư, chẳng hề bỏ sót điều gì. Những sự việc cần làm, thì tự mình đều nhận biết một cách rõ ràng. Nay ta cũng đã già, tuổi đã tám mươi, giống như chiếc xe cũ kỹ, không còn vững chắc nữa.

Ta vốn có nói: Sanh tử có lúc, không có cái gì có sanh mà không có kết thúc. Có một cõi trên Trời tên là bất tưởng nhập, tuổi thọ đến tám mươi bốn ngàn vạn kiếp, cuối cùng thì cũng phải chết. Cho nên Phật giảng nói Kinh pháp cho muôn người, nhằm chỉ ra con đường lớn là Nê Hoàn, đoạn trừ cội gốc của sanh tử.

Nay ta điều thân, lấy thân làm cây đèn để cho thân là chỗ quy y, lấy pháp làm cây đèn, để cho pháp là chỗ tự quy y.

Sao gọi là cây đèn?

Sao gọi là tự quy y?

Đó là chuyên tâm vào bốn chí duy.

Một, tư duy quán thân.

Hai, tư duy quán thọ.

Ba, tư duy quán tâm.

Bốn, tư duy quán pháp, tinh cần, chuyên niệm, tâm ý không xao lãng. Đó gọi là lấy tất cả giáo pháp làm ngọn đèn sáng, làm chỗ nương tựa cho chính mình. Ta vì điều này nên nói lại lần nữa. Nếu muốn hiểu rõ phải tinh tấn thực hành Giới pháp trong, ngoài, khiến luôn được thành tựu.

Còn như tự mình nương tựa nơi giáo pháp, hiểu Kinh Giáo của Phật thì đều là con cháu của đức Như Lai. Nay ta đã lìa bỏ ngôi vị Chuyển Luân Vương, vì muôn loài mà làm bậc giác ngộ, chuyên lo hóa độ để thoát khỏi sinh tử nơi ba cõi. Các vị cũng nên tự lo cho thân mình để đoạn trừ các khổ.

Bấy giờ là an cư mùa hạ mùa mưa, sau khi khâu vá, sửa lại y phục xong, Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan cùng đi đến Duy Da Ly.

Hiền Giả vâng lời, lên đường dừng chân ở quán Viên hầu, khất thực xong, rửa bát, tắm rửa, Ngài lại cùng với Hiền Giả A Nan đến chỗ Cấp Tật Thần.

Đức Phật dạy: Này A Nan!

Nước Duy Da Ly được an lạc. Nước Việt Kỳ cũng được an lạc. Nay trong thiên hạ này có mười sáu nước lớn, tất cả các vùng đất ấy đều được an lạc.

Sông Hy liên nhiên, tạo ra nhiều vàng ròng, cõi Diêm Phù Đề như bức tranh vẽ có năm màu sắc. Con người ở đời cho sống lâu là vui sướng.

Nếu các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni biết được bốn thần túc, thì có thể dứt trừ hết khổ, tu tập thực hành nhiều, thường nhớ mãi không quên, nếu mong muốn thì có thể đạt được bất tử, không chỉ trong một kiếp.

Như vậy, này A Nan, bốn thần túc của Phật đã tu tập trong nhiều thời gian, chuyên niệm không quên, tùy theo ý muốn Như Lai có thể kéo dài tuổi thọ hơn một kiếp cũng được.

Đức Phật nói điều này đến lần thứ hai, thứ ba. Khi ấy tâm ý của Hiền Giả A Nan như chìm đắm đâu đâu, bị ma che khuất, mịt mờ không rõ, nên im lặng không đáp.

Đức Phật bảo: Này A Nan! Ngươi hãy đến dưới một gốc cây mà tĩnh tọa tư duy. Hiền Giả liền theo lời dạy đi tới bên gốc cây, an tọa.

Lúc này Ma Ba Tuần đến nói rằng: Phật nên vào Bát Nê Hoàn. Việc giáo hóa đã hoàn tất, vậy có thể diệt độ. Ngày xưa, Phật du hóa nơi bờ sông Ủ Lưu, giảng dạy cho các người già rằng.

Ta là Phật, tuy được tự tại, nhưng không tham sống lâu. Vậy nay chẳng phải là đã đúng lúc, công việc hóa độ đã hoàn tất, có thể Bát Nê Hoàn được rồi.

Đức Phật bảo Ba Tuần: Sở dĩ tới bây giờ mà ta chưa diệt độ là vì còn chờ cho chúng Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni của ta đều được đầy đủ trí tuệ để kế thừa chánh pháp khuyến hóa kẻ chưa đến với đạo giải thoát cùng khiến cho kẻ tu học được thành tựu.

Và cũng vì chờ cho các hàng Thanh Tín Sĩ, Thanh Tín Nữ có được trí tuệ đầy đủ để góp phần kế thừa Kinh, giới. Ai chưa hội nhập được hội nhập, kẻ thọ pháp thì được thành tựu.

Như vậy, này Ba Tuần! Ta phải chờ cho bốn chúng đệ tử đều đạt được diệu lý của giáo pháp, thay nhau dạy dỗ, khai mở cho những chúng sanh còn mê muội, khiến cho kẻ tu học được thành tựu. Vì thế, mãi đến nay ta vẫn chưa diệt độ.

Ma nói: Đã đủ rồi, thời gian đã hết.

Đức Phật bảo: Ngươi hãy im lặng! Không bao lâu, sau ba tháng nữa, Như Lai sẽ nhập Nê Hoàn. Lòng ma vui sướng, hoan hỷ ra đi. Đức Phật liền ngồi ngay thẳng, nhập định tự tư duy, ở trong pháp tam muội, không trụ vào tánh mạng, xả bỏ thọ hành còn lại.

Ngay lúc ấy, đại địa chấn động mạnh. Bầu Trời trong vắt, ánh hào quang của Đức Phật soi khắp mười phương, Chư Thiên, thần hiện ra khắp hư không.

Đức Phật xuất định, tự nói kệ:

Trong vô lượng các hành

Ta nay bỏ hữu vi,

Gần xa cần hóa độ,

Ta đã hóa độ khắp.

Hiền Giả A Nan trong lòng hoảng hốt, lông tóc dựng đứng, vội bước nhanh đến chỗ Đức Phật, cúi lạy xong, đứng qua một bên, thưa:

Kỳ lạ thay, bạch Đức Thế Tôn! Đại Địa chấn động như vậy là do nhân duyên gì?

Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Đại Địa ở thế gian khi chấn động có tám nguyên nhân.

Những gì là tám?

1. Trong khắp thiên hạ, đất ở trên nước, nước trụ trên gió, gió trụ trên hư không. Nơi hư không, gió lớn có lúc nổi lên làm cho các vùng nước lớn bị nhiễu loạn, như thế thì cả đại địa đều bị chấn động. Đó là nguyên nhân thứ nhất.

2. Có lúc một bậc Sa Môn đắc đạo, hoặc Chư Thiên Thần diệu, uy đức to lớn, muốn thể hiện diệu lực của mình nên dùng tay ấn xuống mặt đất, tức thì đại địa bị chấn động. Đó là nguyên do thứ hai.

3. Hoặc như vị Bồ Tát mới từ Cõi Trời thứ tư Hạ Sanh, nhập vào thai mẹ, là bậc minh triết sáng suốt, muốn thị hiện đạo lớn để giáo hóa, khai mở cho kẻ mê lầm, bèn phóng luồng hào quang kỳ diệu làm chấn động cả đất Trời, khiến cho các Phạm Thiên, Đế Thích, Ma, Sa Môn, Phạm Chí, tất cả đều được thấy ánh sáng ấy. Đó là nguyên do thứ ba.

4. Lúc Bồ Tát ra khỏi thai mẹ, đức của Ngài cảm hóa Chư Thiên, bầu Trời lúc này trong lành không chút mây che, hào quang kỳ diệu tỏa chiếu khắp nơi khiến cả đại địa chấn động. Đó là nguyên do thứ tư.

5. Đến lúc Bồ Tát đạt được đạo Vô Thượng, chứng đắc quả vị Phật, khiến cho cả đại địa chấn động mạnh, Trời thần bốn phương đều tán dương Danh Hiệu Phật. Đó là nguyên do thứ năm.

6. Lúc đã thành Phật, nơi Pháp Hội đầu tiên, ba lần chuyển pháp luân, Trời người hiểu rõ đấy là việc Bồ Tát đã thành tựu được đạo lớn, hào quang tỏa chiếu khắp, bấy giờ cả đại địa đều chấn động. Đó là nguyên do thứ sáu.

7. Sự nghiệp giáo hóa của Đức Phật sắp hoàn mãn, muốn bỏ tuổi thọ, không trụ nơi tánh mạng, bèn phóng luồng hào quang lớn, như thông báo cho Trời người cùng biết, làm cả đại địa chấn động. Đó là thứ nguyên do thứ bảy.

8. Phật là bậc Chúng Hựu, lúc sắp xả thân, nhập Bát Nê Hoàn, hào quang chiếu nơi nơi, Thiên Thần đều đến dự, khiến cho đại địa chấn động. Đó là nguyên do thứ tám.

Tôn Giả A Nan thưa: Nay Đức Phật đã xả bỏ tánh mạng rồi sao?

Đức Phật đáp: Ta đã xả bỏ.

A Nan thưa: Ngày xưa con nghe Phật dạy: Nếu có đệ tử nào biết được bốn thần túc, tu tập thực hành nhiều lần, chuyên niệm không quên, tùy theo ý muốn, có thể sống tới một kiếp hay hơn.

Nhưng uy đức của Phật còn thù thắng hơn nhiều, vậy sao Ngài không kéo dài tuổi thọ?

Đức Phật bảo A Nan: Nay lời nói của ngươi, há chẳng sai lầm sao?

Ta đã nói với ngươi về bốn thần túc ấy cho đến hai ba lần, nhưng lúc đó ngươi vẫn im lặng, đang mãi đắm chìm trong mê muội, tâm tưởng không sáng tỏ, bị ma che khuất, bây giờ còn hỏi gì nữa!

Như thế thì lời của Phật đã nói ra có thể đi ngược lại chăng?

A Nan thưa: Không thể được.

Như vậy, này A Nan! Những kẻ không trí khi đã tự mình nói ra rồi có thể đi ngược lại, còn ta thì không như vậy.

A Nan rơi nước mắt, thưa: Đức Phật sắp nhập Niết Bàn sao mà vội thế!

Con mắt của thế gian chợt tắt, sao mà chóng thế!

Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Hãy gọi các Tỳ Kheo đang du hóa ở nước Duy Da Ly trở về đông đủ ở đây. Tôn Giả liền vâng lời đi gọi, tất cả các Tỳ Kheo trở về tụ tập ở giảng đường, cung kính đảnh lễ Phật rồi đứng qua một bên.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Thế gian là vô thường, không bền chắc, tất cả rồi sẽ ly tán. Ở trong cái vô thường đó, để cho tâm thức dong ruổi chỉ là tự dối mình mà thôi.

Ân ái hội họp nào có bền lâu?

Trời Đất, núi Tu Di còn phải sụp đổ, huống chi là con người, sự vật mà lại muốn trường tồn sao. Sanh tử sầu khổ, chỉ là điều đáng nhàm chán. Sau ba tháng nữa, Phật sẽ nhập Niết Bàn, chớ cho là lạ, chớ có ưu sầu. Vả lại tất cả các Đức Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đều do pháp mà thành tựu.

Kinh Pháp nếu tồn tại đầy đủ thì nên tự cố gắng, siêng năng nỗ lực tu học, giữ tâm thanh tịnh, tất được giải thoát. Tình của tâm thức ngưng nghỉ, thì không chết, mà cũng không còn sinh trở lại nữa không còn phải luân lưu trong năm đường để bỏ thân này, thọ thân khác. Năm ấm đã đoạn trừ thì không còn tai họa đói, khát, lạnh, nóng, ưu sầu khổ não nữa.

Con người biết giữ tâm chân chánh thì Chư Thiên trên Cõi Trời thảy đều vui mừng cho kẻ ấy. Hãy hàng phục tâm, khiến luôn được thuần thục, tự chế ngự, chớ có theo tâm hành.

Hành của tâm, không gì là không làm. Đắc đạo cũng do tâm vậy. Tâm làm Trời, tâm làm người, tâm làm quỷ thần. Súc sanh, địa ngục cũng đều do tâm tạo ra cả.

Từ sự tạo tác của tâm mà sanh ra các pháp, tâm làm ra thức, thức làm ra ý, ý chuyển nhập vào tâm. Tâm ấy, là cái dẫn đầu. Tâm chí làm ra hành, hành làm ra mạng.

Hiền hay ngu cũng do hành. Thọ hay yểu đều từ mạng. Phàm ba cái là chí, hành và mạng đều tùy thuộc vào nhau. Việc làm tốt hay xấu, thân ta phải thọ lãnh lấy.

Cha làm điều bất thiện, con không chịu thay. Con làm điều bất thiện, cha cũng không chịu thay. Làm thiện thì tự mình được phước, làm ác thì tự mình nhận lấy tai ương. Nay Phật được cả Trời người tôn kính đều do chí mà ra. Cho nên cần phải lấy tâm chân chính để hành pháp.

Chỉ có người thực hành đúng theo chánh pháp thì đời này được tịch tĩnh, đời này được an ổn. Vậy hãy khéo thọ trì, tụng đọc Kinh, giới, giữ tâm ý tĩnh lặng tư duy thì giáo pháp thanh tịnh của ta mới được an trụ lâu dài, mới thể hiện lòng từ bi thương xót cứu độ các nỗi khổ của thế gian, dẫn dắt Chư Thiên và muôn người đạt được an lạc.

Các Tỳ Kheo nên biết, pháp ấy là những gì?

Là bốn chí duy, bốn ý đoan, bốn thần túc, bốn thiền hạnh, năm căn, năm lực, bảy giác và tám Đạo Đế. Theo như điều đã thọ nhận mà hành trì thì có thể đạt được giải thoát, làm cho chánh pháp không suy thối.

Sao gọi là bốn chí duy?

Là tư duy quán toàn thân trên nội thân. Quán toàn thân trên ngoại thân. Quán toàn thân trên nội ngoại thân, phân biệt, chuyên niệm, đoạn trừ tâm ý ngu si mê lầm. Quán về thọ, ý và pháp cũng giống như trên.

Sao gọi là bốn ý đoạn?

Là pháp ác đã sanh thì nên liền đoạn trừ, sửa tánh theo hướng tinh tấn, tự thu nhiếp tâm ý đoan chánh. Pháp ác chưa sanh thì kiềm chế đừng cho khởi lên, sửa tánh cho tinh tấn để tự thu nhiếp tâm ý đoan chánh.

Pháp thiện chưa sanh thì nên làm cho phát sanh, sửa tánh theo hướng tinh tấn, để tự thu nhiếp tâm ý đoan chánh. Pháp thiện đã sanh, thì lập chí không quên, khiến cho luôn tăng trưởng, siêng năng làm cho tâm ý đoan chánh.

Sao gọi là bốn thần túc?

Là tư duy về dục định để diệt các hành, đầy đủ niệm thần túc. Dục ấy không tà vạy, không lấy không bỏ, thường giữ hạnh thanh tịnh. Tư duy tinh tấn định, tư duy ý chí định, tư duy giới tập định, đều giống như trên đã nói.

Sao gọi là Bốn Thiền?

Là bỏ dục, pháp ác, duy chỉ niệm, duy chỉ hành, tâm chí an lạc vô vi thành thiền hạnh thứ nhất.

Niệm, hành đã diệt, bên trong giữ nhất tâm, chí ở chỗ tịch tĩnh, thành thiền hạnh thứ hai.

Tư duy quán sát, không dâm, tâm an, thể chánh, phân biệt thấy rõ ràng, thành thiền hạnh thứ ba.

Đã đoạn trừ khổ, vui, không còn tưởng về sự buồn vui, ý đã thanh tịnh, thành thiền hạnh thứ tư.

Sao gọi là năm căn?

1. Tín căn, ý hướng về bốn điều hoan hỷ.

2. Tinh tấn căn, phát huy bốn ý đoan.

3. Niệm căn tức niệm về bốn chí duy.

4. Định căn, suy tư về bốn thiền hạnh.

5. Trí căn, thấy bốn Chân Đế.

Sao gọi là năm lực?

1. Tín lực, ý hoan hỷ không hoại.

2. Tinh tấn lực, thường hay kiềm chế dõng mãnh.

3. Niệm lực, được quán chí duy.

4. Định lực, Thiền ý không loạn.

5. Trí lực, dùng đạo để tự chứng đắc.

Sao gọi là bảy giác chi?

Là niệm giác ý, pháp giải giác ý, tinh tấn giác ý, ái hỷ giác ý, nhất hướng giác ý, duy định giác ý, hành hộ giác ý.

Sao gọi là tám đạo?

Là chánh kiến, chánh tư, chánh ngôn, chánh hành, chánh mạng, chánh trị, chánh chí, chánh định. Đó là pháp thanh tịnh để thoát khỏi thế gian.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan đồng đến ấp Câu lợi. Hiền Giả vâng lời cùng đi. Đức Phật thích Duy Da, đi ngang qua nước này, khi ra khỏi cửa thành, Ngài quay người về phía bên phải, nhìn cửa thành mà cười.

Hiền Giả A Nan liền sửa lại y phục, gối bên mặt chạm sát đất, quỳ gối thưa: Từ khi con được hầu hạ Đức Phật cho đến nay hơn hai mươi năm, con chưa từng thấy Đức Phật làm gì mà không có duyên cớ.

Như vậy việc Ngài quay người lại nhìn cửa thành mà cười là do nhân duyên gì?

Đức Phật đáp: Đúng vậy, đúng vậy.

Này A Nan! Nghi pháp của Phật là không bao giờ quay người một cách vọng động rồi cười suông. Đây là lần cuối cùng ta nhìn thành Duy Da Ly, nên ta nhìn rồi cười.

Bấy giờ, Đức Phật tự nói bài tụng:

Đây là lần cuối cùng,

Ta ngắm Duy Da Ly,

Ta sắp vào Niết Bàn,

Không còn tái sinh nữa.

Có vị Tỳ Kheo khác cũng tán thán Ngài bằng bài tụng:

Phật bảo đây cuối cùng,

Thân hành từ đây hết,

Nếu tâm mãi ruổi dong,

Làm sao thấy được Phật?!

Đức Phật cùng Hiền Giả A Nan đồng đến Câu Lợi, dừng chân ở bên khu rừng phía Bắc thành.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Hãy gìn giữ tịnh giới, nên tư duy định ý, nên phát huy trí tuệ. Hễ ai giữ giới mà có cả định, huệ, thành bậc Đại Đức, có tiếng tăm lớn, vĩnh viễn xa lìa dứt tham dâm, sân hận, ngu si, có thể đạt được đạo quả Ứng Chân.

Nếu muốn đời hiện tại đạt được giải thoát chân chánh thì hãy nỗ lực tự giải thoát, khiến cho: Sự sanh đã dứt hết, đã an trú hạnh thanh tịnh, đã làm viện cần làm, tự mình biết rằng sau thân này không còn thọ thân nào nữa. Đức Phật lại bảo Hiền Giả A Nan cùng đi đến ấp Kiện Trì, đến nơi thì ngồi bên gốc cây phía Bắc thành.

Ngài bảo các Tỳ Kheo: Hãy giữ giới thanh tịnh, tư duy định ý, để mong mở mang trí tuệ. Người giữ giới thanh tịnh thì không chạy theo ba trạng thái, người tư duy định ý thì tâm không buông lung tán loạn, người đã mở mang trí tuệ rồi thì lìa bỏ ái dục, hành động không bị chướng ngại.

Người có đủ giới định tuệ thì đức lớn, tiếng tăm vang xa, lại lìa dứt ba cấu uế, cuối cùng đạt được quả Ứng Chân.

Nếu muốn đời hiện tại đạt được giải thoát chân chánh thì hãy nỗ lục tự giải thoát, khiến cho: Sự sanh đã dứt hết, đã an trú hạnh thanh tịnh, đã làm việc cần làm, tự mình biết rằng sau thân này sẽ không còn thọ thân nữa.

Đức Phật lại cùng Hiền Giả A Nan đồng qua ấp Yêm Mãn và ấp Xuất Kim, ấp Thọ Thủ, ấp Hoa Thị, lại đến ấp Thiện Tịnh, ở chỗ nào Ngài cũng vì các đệ tử nói ba điều căn bản này: Nên giữ giới, nên tư duy thiền định, và nên mở mang trí tuệ. Giữ ba điều ấy thì uy đức, tiếng tốt vang xa, tiêu trừ dâm, nộ, si. Đó gọi là sự giải thoát chân chánh.

Đã có giới thì tâm được định, tâm định đã thành tựu thì trí huệ liền sáng tỏ. Như nhuộm tấm giạ sạch thì màu sắc sẽ tươi đẹp.

Ai có ba tâm này thì dễ đạt được đạo. Chỉ một lòng cầu giải thoát, để cho sự sanh đã dứt hết, đã an trú hạnh thanh tịnh, đã làm việc cần làm, tự mình biết rằng sau thân sẽ không còn thọ thân nữa. Nếu ai không thực hành đầy đủ Giới Định Huệ, mà muốn thoát khỏi sanh tử nơi thế gian thì thật là khó.

Nếu có đủ ba điều ấy thì tâm ý tự khai mở, an tọa tư duy liền thấy rõ năm đường: Trời, người, địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ. Biết rõ những điều nhớ nghĩ trong tâm ý của chúng sanh. Ví như khe nước trong sạch thì những thứ cát sỏi ở dưới đáy có màu xanh, vàng, trắng, đen đều thấy tất cả.

Người đắc đạo do tâm thanh tịnh nên mọi đối tượng nhận thức đều thấu đạt. Nếu ai muốn đắc đạo thì hãy làm cho tâm mình được thanh tịnh. Như nước dơ, đục thì không thấy gì cả. Nếu giữ tâm không thanh tịnh thì không thể giải thoát khỏi thế gian.

Những điều thầy thấy được rồi giảng nói ra thì đệ tử phải nên thực hành. Thầy không thể thực hành thay cho đệ tử, nên giữ niệm chân chánh. Nếu ai niệm ý được ngay thẳng thì liền đắc đạo. Đức Phật đã đạt được an lạc trong pháp thiện thanh tịnh. Đức Phật lại bảo Hiền Giả A Nan cùng đi đến ấp Phu Diên, ngồi bên gốc cây nơi phía Bắc thành.

Vào lúc xế chiều, Hiền Giả A Nan từ chỗ ngồi Thiền đứng dậy, đến trước Đức Phật đảnh lễ rồi chắp tay thưa: Con thật sự muốn biết rõ là đại địa chấn động do mấy nguyên nhân?

Đức Phật bảo Hiền Giả: Có ba nguyên nhân:

1. Đất nương trên nước, nước nương trên gió, gió nương trên hư không. Khi gió lớn nổi lên khiến nước bị chấn động, nước chấn động làm cho đại địa chấn động.

2. Bậc Sa Môn đắc đạo và Chư Thiên Thần diệu, muốn thể hiện sự cảm ứng cho nên đại địa chấn động.

3. Do thần lực của Phật. Từ lúc ta thành Phật đến nay, trước và sau đại địa đều chấn động. Ba ngàn Mặt Trời, Mặt Trăng, một vạn hai ngàn Cõi Trời Đất đều cảm ứng, hầu hết Trời, Người, Quỷ Thần đều được khai mở.

Hiền Giả A Nan tán thán: Kỳ diệu thay! Không ai sánh bằng Phật! Ngài dùng pháp tự nhiên mà không đâu là không cảm ứng, chấn động. Đức tột bậc, đạo tột cùng, vòi vọi như thế.

Đức Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy, này A Nan! Oai đức của Phật hết sức lớn lao, vì đã tích lũy công đức từ vô số kiếp, phụng hành các pháp lành, tự mình tu tập thành Phật, có pháp hóa tác tự nhiên thần diệu như vậy.

Ngài là bậc biết tất cả, thấy tất cả, không gì là không hội nhập, không gì là không cảm hóa được. Nhớ lại xưa kia ta đã dùng tâm từ bi đối với hàng trăm ngàn người trong thiên hạ gồm các bậc Vua chúa, các vị quân tử đều cùng gặp nhau để giáo hóa, tùy theo hình tướng của họ mà ta an ủi, giảng nói Kinh pháp, giáo hóa cùng khắp khiến họ đạt được ý lành.

Ta hiện thân giáo hóa như vậy, khắp cả tám phương, tùy theo tiếng nói, phục sức và phong tục của nước đó, biết họ hành pháp gì, biết Kinh gì nên ta đã diễn giảng truyền trao để đưa họ vào chánh đạo.

Đối với người ưa thích ngôn từ mang nhiều ý nghĩa thì ta nêu bày giáo pháp rõ ràng, dễ lãnh hội. Đối với người hiểu đạo lý thì ta giảng nói về những điều cốt yếu nhằm làm cho ý chí của họ thêm vững chắc rồi ta đi.

Các Vua, các vị quân tử đều chẳng biết ta là ai, về sau họ đều hết lòng, cung kính vâng theo sự giáo hóa đúng pháp ấy. Đó là pháp tự nhiên thanh tịnh vi diệu của Phật.

Lại nữa, này A Nan! Ta có được Phật lực, hội nhập khắp chốn để hiện thân giáo hóa, dùng oai nghi của Phật đi vào chúng Sa Môn, làm bậc Đạo Sư, sau đó hóa nhập vào chúng Phạm Chí, lại nhập vào chúng cư sĩ, cũng như các nhóm học thuật khác nhau.

Tùy theo lối ăn mặc, âm thanh, ngôn ngữ của họ mà ta giảng dạy Kinh pháp cho họ, khiến cho tất cả đều được thành tựu, làm pháp mẫu mực cho họ, rồi biến mất. Họ đều nghe theo lời chỉ dạy của ta mà chẳng biết ta là ai. Đó là pháp tự nhiên khó có được của Phật. Ta cũng nhập vào Cõi Trời thứ nhất là Tứ Thiên Vương.

Cõi Trời thứ hai là Đao Lợi.

Cõi Trời thứ ba là Diệm Thiên.

Cõi Trời thứ tư là Đâu Thuật.

Cõi Trời thứ năm là Bất Kiêu Lạc.

Cõi Trời thứ sáu là Hóa Ứng Thinh, chung quanh là cõi ma.

Lại lên Cõi Trời thứ bảy là Phạm Thiên.

Cõi Trời thứ tám là Phạm Chúng.

Cõi Trời thứ chín là Phạm Phụ.

Cõi Trời thứ mười là Đại Phạm.

Cõi Trời thứ mười một là Thủy Hành.

Cõi Trời thứ mười hai là Thủy Vi.

Cõi Trời thứ mười ba là Thủy Vô Lượng.

Cõi Trời thứ mười bốn là Thủy Âm.

Cõi Trời thứ mười lăm là Ước Tịnh.

Cõi Trời thứ mười sáu là Biến Tịnh.

Cõi Trời thứ mười bảy là Thanh Minh.

Cõi Trời thứ mười tám là Thủy Diệu.

Cõi Trời thứ mười chín là Huyền Diệu.

Cõi Trời thứ hai mươi là Phước Đức.

Cõi Trời hai mươi mốt là Ý Thuần Thứ.

Cõi Trời thứ hai mươi hai là Cận Tế.

Cõi Trời thứ hai mươi ba là Khoái Kiến.

Cõi Trời thứ hai mươi bốn là Vô kết ái.

Tất cả các cõi ấy ta đều đi khắp, gặp hàng trăm ngàn người, hóa hiện theo dung mạo của Chư Thiên để cùng họ gặp gỡ. Người ưa sự thanh tịnh thì ta nói về sự thanh tịnh cho họ, người thông đạt ý đạo thì ta khuyên nên hóa độ rộng rãi. Với người nhân từ thuần thục thì ta để họ nơi đại đạo. Ai hiểu rõ về các pháp ta liền trao truyền pháp quan trọng.

Ta khuyên nhủ, dẫn dắt, hóa độ thuận hợp nhanh chóng, khiến họ đạt đạo xong thì liền biến mất, mà các hàng Chư Thiên ấy chẳng biết ta là ai. Đó là pháp tự nhiên khó có được của Phật. Vì bốn Cõi Trời còn lại ở trên không có hình tướng, âm thanh, nên Phật không đến.

Đó là Cõi Trời thứ hai mươi lăm là Không Huệ Nhập.

Cõi Trời thứ hai mươi sáu là Thức Huệ Nhập.

Cõi Trời thứ hai mươi bảy là Bất Dụng Huệ Nhập.

và Cõi Trời thứ hai mươi tám là Bất Tưởng Nhập.

Như vậy, này A Nan! Ân đức của Phật thật là rộng lớn, không ai là không được Phật tế độ, nhưng rất khó gặp. Đức Phật xuất hiện ở thế gian như hoa âu ba la đúng thời mới nở. Đức Phật thuyết pháp cũng khó được nghe, đã nghe được Kinh pháp thì phải nên thọ nhận, hộ trì.

Hộ trì như thế nào?

Sau khi ta diệt độ, nếu có Tỳ Kheo nói: Tôi thấy Phật, tôi thọ lãnh pháp này, luật này, sự chỉ dạy này từ miệng Ngài nói ra. Nhưng lời nói của người ấy không gần gũi với Kinh Điển lại là pháp thiếu sót gây tổn hại. Vậy hãy nên đem các câu giáo pháp nơi Kinh, nơi luật đã thấy đã biết để giảng giải cho vị Tỳ Kheo kia.

Nếu những lời ấy không hợp với Kinh, luật, so sánh xong thì khuyên can: Hiền Giả hãy nghe đây! Đức Phật không giảng nói điều này. Thầy đã thọ lãnh không đúng nên không hợp với ý của pháp, chẳng phải là pháp, chẳng phải là luật, không giống như lời Phật dạy. Thầy nên biết điều đó để bỏ đi.

Nếu có Tỳ Kheo bảo: Tôi ở chỗ đó, được nương tựa nơi Thánh Chúng, có pháp giới, tôi trực tiếp thọ pháp này, luật này, những lời giảng dạy này. Nhưng nếu lời nói của người đó không gần với Kinh Điển, gây tổn hại cho chánh pháp, thì hãy đem giáo pháp nơi Kinh nơi luật để giải thích cho kẻ ấy.

Nếu những lời nói kia không thích hợp với giáo pháp nơi Kinh, nơi luật thì nên khuyên can: Này Hiền Giả, hãy lắng nghe! Chúng Tỳ Kheo biết pháp hiểu luật, còn những điều ông nói thì không phải là giáo pháp, là giới luật. đã thọ nhận sai lạc, không hợp với ý nghĩa của Kinh, pháp. Điều này không giống như lời Phật dạy, nên biết điều đó mà bỏ đi.

Nếu có Tỳ Kheo nói: Tôi đích thân theo các bậc Trưởng Lão kỳ cựu được nghe từ miệng chư vị ấy nói về pháp này, luật này, giáo này. Nhưng những lời được cho là Kinh Giáo ấy không gần gũi với Kinh Điển, làm tổn hại chánh pháp. Hãy đem những giáo pháp nơi Kinh để giải thích cho kẻ ấy.

Nếu những lời nói kia không hợp với ý nghĩa nơi Kinh Luật thì nên khuyên can: Này Hiền Giả, hãy lắng nghe! Các bậc Trưởng Lão kỳ cựu là người biết pháp hiểu luật, còn những điều Thầy nói ra thì chẳng phải là giáo pháp, giới luật. Thầy đã thu nhận sai lạc, không phù hợp với Kinh, lại ngược với ý pháp, không đúng như lời Phật dạy. Nên biết điều đó mà bỏ đi.

Nếu có Tỳ Kheo cho rằng: Tôi được ở gần các Bậc Hiền tài, cao minh, trí tuệ thông tỏ, phước đức, được nhiều người tôn kính, lãnh thọ từ các vị ấy những lời dạy về Kinh, luật giáo pháp này. Nhưng lời nói của người kia không gần với Kinh lại làm tổn hại chánh pháp, nên đem ý nghĩa của giáo pháp nơi Kinh để giải thích cho vị ấy.

Nếu những lời nói kia không hợp với ý nghĩa Kinh pháp, chống trái đưa đến tranh cãi, thì nên khuyên vị ấy: Này Hiền Giả hãy lắng nghe! Các Bậc Hiền triết cao minh thì hiểu biết giáo pháp Kinh Luật. Còn những điều này thì không phải là giáo pháp Kinh Luật. Thầy đã thu nhận sai lạc về điều này không phù hợp với Kinh, cùng đi ngược lại ý nghĩa giáo pháp, không đúng như lời Phật dạy, nên biết điều đó mà bỏ đi.

Lại nữa, này A Nan!

Nếu có người nói: Tôi được theo Phật thụ nhận giáo pháp này. Nhưng lời nói ấy thì sai lầm, không hợp với Kinh pháp.

Hoặc có người bảo: Tôi từng nương tựa nơi Thánh Chúng, nên được phụng lãnh giáo pháp như vậy. Nhưng lời nói của người kia thì sai lầm, không hợp với Kinh pháp.

Hoặc có người nói: Chính miệng của tôi nghe điều này từ các vị Trưởng Lão kỳ cựu. Nhưng lời nói ấy lại sai lầm, không hợp với Kinh pháp.

Hoặc nói: Tôi thụ lãnh lời nói này từ các Bậc Hiền tài, cao minh, trí lớn, phước dày. Nhưng lời nói ấy sai lầm, không hợp với Kinh pháp. Hãy nêu lên lời dạy của Phật để giải thích cho những kẻ ấy hiểu, khiến họ hội nhập và hiểu biết đúng theo Kinh Luật.

Nhờ nói rõ về giáo pháp Kinh Luật của Phật mà Thánh Chúng thừa hành, các vị Trưởng Lão thấy rõ, các Bậc Hiền tài được biết, các hàng hiền thiện thọ nhận đúng đắn. Như luật dạy là không được tranh cãi, nên biết để thọ trì bốn điều này.

Này A Nan, hoặc có bốn điều tối tăm làm tổn hại chánh pháp, phải biết phân biệt, để trừ bỏ điều tà vạy, thọ trì bốn chánh ý. Đó gọi là thọ trì, giữ gìn chánh pháp.

Nếu ai không vâng theo Kinh giới, thì chúng Tỳ Kheo nên trục xuất kẻ ấy ra ngoài. Các thứ cỏ xấu nếu không nhổ đi thì sẽ làm hại đến mầm lúa tươi tốt.

Đệ tử không tốt làm tổn hại đến đạo pháp của ta. Hãy cùng nhau kiểm điểm, sách tấn, đừng để sau khi Phật diệt độ rồi không ai kế thừa giáo pháp. Ở đời nếu có các vị Sa Môn phụng hành Kinh giới thì khắp chốn được phước, Trời, Thần đều hoan hỷ.

Nếu nghe ở chỗ nào đó có Tỳ Kheo thông hiểu Kinh, các Tỳ Kheo khác tuy lớn tuổi mà mới vào đạo thì phải tìm đến vị kia để học hỏi, thọ trì. Như vậy thì sẽ được các hàng Thanh Tín Sĩ, Thanh Tín Nữ vui thích cúng dường y phục, các thức ăn uống, giường nằm, thuốc chữa bệnh.

Tỳ Kheo đồng đạo thì không nên bất hòa. Những người bị đọa vào địa ngục, ba cõi ác đều do bất hòa mà ra.

Tỳ Kheo không nên cùng nhau đùa giỡn cho rằng: Ta biết Kinh nhiều, ông biết Kinh ít! Biết nhiều hay biết ít phải tự mình thực hành. Lời nói nào phù hợp với Kinh thì dùng, lời nói nào không phù hợp với Kinh thì bỏ. Điều nào do Phật nói ra, Tỳ Kheo đã thọ trì thì hãy khéo gìn giữ.

Từ nay về sau, phàm giảng giải về Kinh thì nên nói: Nghe như vậy! Một thời Phật ở tại nơi nào, nước nào, cùng đông đủ chúng Tỳ Kheo nào giảng nói Kinh này.

Nếu Kinh đó là đúng thì không được khinh suất nói rằng: Kinh đó không phải do Phật nói. Nếu các Tỳ Kheo cùng nhau vâng làm như vậy, thì chánh pháp được tồn tại lâu dài.

Bấy giờ Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Tất cả hãy đến nước Ba Tuần. Các đệ tử vâng lời cùng đi. Đức Phật muốn vào trong thành Phu diên lịch, rồi dừng chân nơi vườn Thiền đầu bên ngoài thành.

Các tộc họ phú hào ở Ba Tuần có những người thuộc dân Hoa Thị, nghe Đức Phật đến, họ cùng nhau kéo tới ra mắt, đảnh lễ, xong rồi ngồi qua một bên.

Đức Phật bảo các Hoa Thị: Hàng trí thức ở nhà, tuân thủ sự kiệm ước, phụng hành bốn việc, để luôn được vui vẻ:

1. Phụng dưỡng cha mẹ săn sóc vợ con.

2. Trông nom khách khứa, nô tỳ.

3. Cung cấp bố thí cho những người thân thuộc, bằng hữu tri thức.

4. Phụng sự các bậc Vua, Trời, Thần, Sa Môn, Đạo Sĩ.

Nếu làm được như vậy sẽ biết cuộc sống hiện tại thân được an, nhà cửa được an, có sức khỏe, dung mạo tươi đẹp, giàu có sung túc, hiểu biết rộng, lúc chết được sanh lên Cõi Trời. Đức Phật thuyết pháp, giáo hóa các Hoa Thị, với những lời lẽ thiết yếu khiến cho tất cả đều hoan hỷ, xin cáo từ.

Chỉ có người con của Hoa Thị tên là Thuần, một mình ở lại, đứng dậy sửa y phục rồi quỳ gối bạch Đức Phật: Con muốn sửa soạn một bữa cơm thịnh soạn, cúi mong Đức Phật cùng đại chúng đồng thể hiện oai thần, hạ cố. Đức Phật vì lòng thương xót nên im lặng nhận lời. Thuần vui mừng đảnh lễ rồi về nhà sửa soạn các thức ăn ngon, trang hoàng phòng ốc.

Sáng sớm, trải sàng tọa xong đi đến bạch Đức Phật: Công việc đã xong xuôi, cúi mong Đức Thánh biết thời. Đức Phật cùng các đệ tử đồng đến nhà ông. Đức Phật ngồi chỗ ngồi cao trước đại chúng.

Thuần tự tay bưng dọn thức ăn và phân chia vào các bình bát. Có vị Tỳ Kheo xấu tính đã ăn rồi mà vẫn đưa bình bát. Đức Phật biết điều đó.

Thuần nghĩ đến sự tư duy của Thánh, thành tâm cúng dường: Khi lấy nước rửa xong, ông cầm một cái ghế nhỏ ngồi trước Đức Phật, nói bài tụng để hỏi:

Xin hỏi Bậc Thánh Trí,

Đã đến bờ bên kia,

Vị pháp ngự hết nghi

Có mấy loại Sa Môn.

Đức Phật bảo Thuần: Có bốn hạng Sa Môn, phải biết mà phân biệt:

1. Loại hành đạo thù thắng.

2. Đạt đạo có thể diễn giảng.

3. Nương đạo để sanh sống.

4. Hạng làm ô uế đạo.

Sao gọi là hạng Sa Môn hành đạo thù thắng?

Là Đức Phật thuyết giảng Kinh pháp nhiều vô số, vị ấy có thể thực hành không gì sánh kịp, hàng phục được tâm luôn lo lắng đối với chánh pháp, là bậc chỉ đường, dẫn dắt cho thế gian. Đó là loại Sa Môn hành đạo thù thắng bậc nhất.

Sao gọi là hạng Sa Môn đạt đạo có thể giảng nói được?

Những pháp thâm diệu được Đức Phật thuyết giảng, tán dương, vị ấy đều có thể lý giải thông suốt, thực hành không chút nghi ngờ, lại cũng có thể thuyết giảng Kinh pháp cho người khác nghe. Đó là loại Sa Môn đạt đạo và có thể giảng nói được.

Sao gọi là hạng Sa Môn nương vào đạo?

Là kẻ luôn nhớ nghĩ, tự giữ gìn, siêng năng học tập không thối lui, luôn nỗ lực không mỏi, lấy pháp để tự nuôi sống. Đó là hạng Sa Môn biết nương theo đạo để sanh sống.

Sao gọi là hạng Sa Môn làm ô uế đạo?

Là kẻ buông lung tâm ý theo dục lạc, ỷ lại vào tộc họ, dòng dõi, chuyên làm ô uế đạo, bị chúng dị nghị, không tôn kính lời Phật dạy, cũng không sợ tội lỗi. Hạng Sa Môn này làm ô uế đạo. Phàm con người khi nghe thấy điều gì nên đem so sánh với đạo, học theo bậc trí huệ, thanh tịnh như họ mới thôi.

Nên biết trong đó có đúng có sai, có thiện có ác, không thể giống nhau, cùng một loại. Người bất thiện sẽ bị các Hiền Giả chê trách, cho nên trong giới luật của Đức Phật luôn gạt bỏ những kẻ xấu ác, ví như trong lúa non sanh ra cỏ, nếu không nhổ cỏ đi thì lúa bị tổn hại.

Thế gian có rất nhiều hạng người này, trong thì ôm lòng uế trược, ngoài thì in như người thanh tịnh. Nếu có người biết phước đức, có lòng tin tưởng, dốc phụng sự đạo pháp, thì rốt cuộc không bao giờ vì những kẻ xấu ác kia mà khởi tâm sân hận.

Người biết điều thiện, tu thân, xa điều ác, trừ bỏ dục, nộ, si cho nên được đắc đạo nhanh. Đức Phật giảng nói như vậy xong, thuần hết sức vui mừng.

***