Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bát Nê Hoàn

 

PHẬT THUYẾT

KINH BÁT NÊ HOÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Pháp Thiên, Đời Tống
 

PHẦN MỘT
 

Tôi nghe như vậy!

Một thời Phật du hóa tại núi Diêu, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Tỳ Kheo một nghìn hai trăm năm mươi người. Bấy giờ Vua A Xà Thế nước Ma Kiệt, cùng với nước Việt Kỳ không hòa thuận.

Nhà Vua tập họp Quần Thần cùng bàn bạc: Nước Việt Kỳ cậy mình giàu có, dân chúng đông đúc, đất đai phì nhiêu, lại có nhiều châu báu nên không chịu thần phục ta. Vậy hãy đem binh chinh phạt nước ấy. Trong số các Bậc Hiền thiện của nước Ma Kiệt có một Đại Thần tên Vũ Xá vốn thuộc chủng tộc Phạm Chí.

Vua A Xà Thế sai ông đến đảnh lễ ra mắt Đức Phật, kính hỏi thăm tin tức, Ngài ngồi đứng có nhẹ nhàng không, đi lại có khỏe mạnh không, đức hóa ngày có càng tốt đẹp không, và thưa: Vua A Xà Thế của nước Ma Kiệt cùng với nước Việt Kỳ có sự hiềm khích, Vua quan cùng bàn luận muốn đem quân sang đánh nước ấy, cúi mong đức Chúng Hựu có lời gì dạy bảo chăng?

Đại Thần Vũ Xá vâng mệnh Vua, liền cho năm trăm cỗ xe, hai ngàn người đi bộ, hai ngàn người cỡi ngựa tất cả cùng đi đến núi Diêu. Tới chỗ giáp con đường nhỏ Vũ Xá liền xuống xe đi bộ. Thấy Đức Phật hoan hỷ, sắc diện khiêm cung, từ tốn.

Thần khí trang trọng, nhún nhường, Vũ Xá liền vái chào đúng lễ nghi rồi quỳ mọp mà bạch rằng: Vua A Xà Thế nước Ma Kiệt, sai con đến đảnh lễ Đức Phật, cung kính hỏi thăm tin tức, Ngài ngồi đứng có nhẹ nhàng không, đi lại cỏ khỏe mạnh không, đức hóa ngày có càng tốt đẹp không?

Đức Phật đáp: Rất tốt! Nhà Vua, dân chúng trong nước cùng ông thảy đều bình an chăng?

Vũ Xá bạch: Nhà Vua cùng với nước Việt Kỳ có điều hiềm khích.

Vua và các quan họp lại bàn bạc: Vì nước ấy cậy mình giàu có, dân đông, đất đai phì nhiêu, sản sanh ra nhiều châu báu, nên không chịu thuần phục nước Ma Kiệt. Vì vậy Vua nước Ma Kiệt muốn đem quân sang đánh.

Cúi mong Đức Phật dạy bảo.

Đức Phật nói với vị Đại Thần: Ngày xưa, một thời ta từng du hóa ở nước Việt Kỳ, dừng chân nơi Miếu Thần Chánh Táo, thấy dân chúng nước ấy đều hết lòng tuân theo lệnh Vua. Khi ấy ta liền nói về bảy pháp trị nước, là con đường không nguy vong. Nếu ai thực hành được, thì ngày càng hưng thịnh, không hề suy tổn.

Đại Thần Vũ Xá liền chắp tay bạch: Con muốn được nghe bảy pháp ấy, và cách thức thi hành như thế nào?

Đức Phật dạy: Hãy lắng nghe!

Đáp: Con xin thọ giáo.

Khi ấy, Hiền Giả A Nan đứng phía sau quạt hầu Phật.

Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Ngươi có nghe người nước Việt Kỳ thường cùng nhau tụ hội, bàn luận về chính sự, tu chỉnh phòng bị để tự thủ chăng?

Đáp: Con có nghe người nước họ thường cùng nhau tụ hội để bàn luận về chính sự, tu chỉnh phòng bị để tự thủ.

Đức Phật dạy: Nếu như vậy thì nước ấy không thể suy thối.

Ngươi có nghe ở nước Việt Kỳ, Vua tôi thường hòa thuận, trung thành với trách nhiệm, cùng tôn kính, cúng dường nhau chăng?

Thưa: Con có nghe Vua tôi nước ấy thường hòa thuận, trung thành với trách nhiệm, cùng tôn kính, cúng dường nhau.

Ngươi có nghe dân nước Việt Kỳ cùng nhau tôn trọng pháp luật, không chấp nhận những điều không đáng được chấp thuận, không dám trái phạm chăng?

Đáp: Con nghe dân chúng nước ấy tôn trọng luật pháp, không chấp nhận những điều không đáng được chấp thuận. Không dám trái phạm.

Ngươi có nghe dân nước Việt Kỳ kính cẩn giữ đúng lễ, nam nữ sống riêng biệt, lớn nhỏ kính nhường lẫn nhau chăng?

Đáp: Con có nghe dân nước Việt Kỳ kính cẩn giữ đúng lễ, nam nữ sống riêng biệt, lớn nhỏ kính nhường lẫn nhau.

Ngươi có nghe dân nước Việt Kỳ hiếu thuận đối với cha mẹ, tôn trọng Sư Trưởng, luôn nghe lời dạy bảo của các bậc Trưởng Thượng chăng?

Đáp: Con có nghe dân nước ấy hiếu thuận đối với cha mẹ, tôn kính Sư Trưởng, luôn nghe lời dạy bảo của các bậc Trưởng Thượng.

Ngươi có nghe dân nước Việt Kỳ vâng theo phép Trời, noi theo phép đất, kính sợ quỷ thần, kính thuận bốn mùa chăng?

Thưa: Con có nghe dân nước ấy vâng theo phép Trời, noi theo phép đất, kính sợ quỷ thần, kính thuận bốn mùa.

Ngươi có nghe dân nước Việt Kỳ tôn thờ đạo đức, trong nước có các bậc Sa Môn, A La Hán hoặc chư vị ấy từ bốn phương đến thì luôn cúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm và thuốc chữa bệnh chăng?

Thưa: Con có nghe dân nước ấy kính thờ đạo đức, trong nước có các bậc Sa Môn, A La Hán, hoặc chư vị ấy từ bốn phương đến thì luôn cúng dường y phục, thức ăn uống, giường nằm và thuốc chữa bệnh.

Đức Phật dạy: Phàm nước nào thực hành bảy pháp này, thì khó làm cho họ nguy khốn được.

Vũ Xá thưa: Nếu dân nước Việt Kỳ thực hành được một pháp thôi thì hãy còn không thể công phá nổi, huống chi là thực hành đủ bảy pháp ấy.

Vũ Xá lại thưa: Vì việc nước quá bề bộn nên con xin cáo từ.

Đức Phật bảo: Ông nên biết thời. Vũ Xá liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Đức Phật rồi ra đi. Bấy giờ Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan, hãy báo cho các Tỳ Kheo ở trong núi Diêu biết, tất cả tập họp tại giảng đường.

Hiền Giả A Nan liền triệu tập đông đủ các Tỳ Kheo tại giảng đường. Đại chúng cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi ngồi sang một bên.

Đức Phật dạy: Này các Tỳ Kheo! Hãy nghe ta nói, hãy khéo suy nghĩ, lãnh hội.

Tất cả Tỳ Kheo đều bạch: Chúng con xin thọ giáo.

Đức Phật dạy: Tỳ Kheo có bảy giáo pháp thì chánh pháp không suy thoái.

Những gì là bảy?

Một, thường xuyên tụ hội để tụng giảng Kinh đạo, không được biếng nhác.

Hai, phải hòa thuận, trung chánh, dạy bảo lẫn nhau, cùng tôn kính, cúng dường nhau.

Ba, không chấp nhận những điều không đáng được chấp thuận. Vui thích ở những nơi chốn thanh vắng.

Bốn, phải dứt bỏ dâm dục, lớn nhỏ có thứ tự, đối xử nhau đúng lễ.

Năm, phải lấy lòng từ hiếu kính thờ các bậc Sư Trưởng, nghe lời dạy bảo.

Sáu, phải phụng thờ giới pháp, kính sợ Kinh giới, tu tập phạm hạnh.

Bảy, phải tuân theo đạo pháp, cúng dường Thánh chúng, khai mở cho kẻ mới tu học. Người đến học, phải cung cấp y phục, thức ăn uống, giường nằm cùng thuốc chữa bệnh cho họ. Đó là bảy pháp có thể làm cho chánh pháp được trụ lâu dài.

Lại nữa, Tỳ Kheo có bảy điều cần phải giữ gìn thì chánh pháp không suy thối.

Phải khéo suy tư, thực hành:

Một, giữ sự thanh tịnh, không ưa thích các pháp hữu vi.

Hai, giữ sự vô dục, không tham lợi dưỡng.

Ba, giữ nhẫn nhục, không có tranh tụng.

Bốn, giữ hạnh không, không vào chỗ đông người.

Năm, giữ pháp ý, không khởi các tưởng.

Sáu, giữ nhất tâm, tọa thiền, định ý.

Bảy, giữ sự kiệm ước, ăn mặc giản dị, lấy cỏ làm giường.

Bảy pháp như vậy, có thể làm cho pháp chánh được trụ lâu dài.

Lại nữa, này các Tỳ Kheo, có bảy điều cung kính thì chánh pháp không bị suy thối.

Phải khéo suy niệm, thực hành:

Một, kính Phật, hãy khéo đem tâm lễ bái, không nương tựa vào đâu khác.

Hai, kính pháp, chí ở nơi ý đạo, không nương tựa vào đâu khác.

Ba, kính Chúng Tăng, vâng theo lời dạy, không nương tựa vào đâu khác.

Bốn, kính trọng sự tu học, kính thờ người trì giới, không nương tựa vào đâu khác.

Năm, kính trọng những điều hiểu biết, kính thờ những vị giảng dạy, không nương tựa vào đâu khác.

Sáu, kính trọng sự thanh tịnh, vô dục, không nương tựa vào đâu khác.

Bảy, kính trọng Thiền định, dốc thực hành việc ngồi Thiền, tĩnh lặng, không nương tựa vào đâu khác.

Hành bảy pháp như vậy thì chánh pháp có thể được trụ lâu dài.

Lại nữa, Tỳ Kheo có bảy thứ tài sản, khiến cho chánh pháp không suy thối, phải khéo nhớ nghĩ, thực hành:

1. Phải có tín tâm, thấy biết điều chân chánh thì vui mừng.

2. Phải có giới pháp, thận trọng giữ gìn, không phạm.

3. Phải có tâm xấu hổ, quyết sửa đổi lỗi lầm, tự hối hận về điều sai quấy đã vấp phải.

4. Phải có tâm hổ thẹn, nói và làm phải phù hợp.

5. Phải gắng học hỏi để hiểu biết, đọc tụng không nhàm chán.

6. Phải có trí tuệ để sự hành hóa đạt đến chỗ sâu xa, vi diệu.

7. Phải bố thí giáo pháp, chớ mong được mọi người kính lạy.

Thực hành bảy pháp như vậy, thì chánh pháp có thể được trụ lâu dài.

Lại nữa, Tỳ Kheo có bảy pháp giác ý thì chánh pháp không suy thối, phải khéo nhớ nghĩ, thực hành:

1. Chí niệm giác ý, thanh tịnh không dâm, tịch tĩnh, ý phân tán.

2. Pháp giải giác ý, thanh tịnh không dâm, lìa bỏ ý phân tán.

3. Tinh tấn giác ý, thanh tịnh không dâm, xả bỏ ý phân tán.

4. Ái hỷ giác ý, thanh tịnh không dâm, xả bỏ ý phân tán.

5. Nhất hướng giác ý, thanh tịnh không dâm, xả bỏ ý phân tán.

6. Duy định giác ý, thanh tịnh không dâm, xả bỏ ý phân tán.

7. Hành hộ giác ý, thanh tịnh không dâm, xả bỏ ý phân tán.

Thực hành bảy pháp như vậy, có thể làm cho chánh pháp được trụ thế lâu dài.

Lại nữa, Tỳ Kheo có bảy điều cần phải biết, thì chánh pháp được trụ thế lâu dài, phải khéo nhớ nghĩ, thực hành:

1. Phải hiểu biết về giáo pháp, đối với mười hai Bộ Kinh của Phật, phải thọ trì, tụng đọc thật kỹ.

2. Phải hiểu biết về ý nghĩa, cầu các pháp để mở mang trí huệ, hiểu rộng chỗ cốt yếu.

3. Phải hiểu biết về thời gian, hoàn cảnh lúc nào nên tụng Kinh, lúc nào đi kinh hành, lúc nào tham thiền, lúc nào nằm nghỉ, đừng xáo trộn thời biểu.

4. Phải tự tri, đã hội nhập nẻo hành hóa đúng pháp nhiều hay ít, sâu hay cạn, đã thành thục hay mới thực tập, quyết chí ngày một tiến bộ.

5. Phải biết tiết chế, chớ tham lam các vật dụng tốt đẹp, phải biết thích nghi thân, điều độ trong việc ăn uống, đừng để thân mình bị bệnh.

6. Biết rõ về các chúng. Khi đi vào chỗ những chúng Tỳ Kheo, Phạm Chí, Thánh Nhân, Quân Tử và đám đông dân chúng, phải biết phân biệt biết chỗ nào đáng cung kính, chỗ nào nên đứng, chỗ nào nên ngồi, chỗ nào nên im lặng, chỗ nào nên nói năng.

7. Biết về người. Hãy quán về chỗ tốt đẹp, xem xét ý chí, khả năng của từng người, theo đấy mà khuyến khích, dẫn dắt, khiến mọi người đều biết được chỗ giáo hóa của bậc Thánh.

Thực hành bảy pháp như vậy, có thể làm cho chánh pháp được trụ lâu dài.

Lại nữa, Tỳ Kheo có bảy điều suy tưởng, khiến cho chánh pháp không suy thối, phải khéo lãnh hội, thực hành:

1. Nhớ nghĩ về Kinh Sách đạo pháp, như người tưởng nhớ về cha mẹ. Cha mẹ sanh con, lo lắng cực nhọc cả một đời, nhưng chánh pháp thì cứu độ người trong vô số đời, đưa con người thoát khỏi sanh tử.

2. Nhớ nghĩ về cuộc sống của con người, chẳng ai là chẳng khổ.

Lo nghĩ về vợ con trong gia đình mình, chết rồi mỗi người ly tán một ngả, chẳng biết đọa lạc nơi nào?!

Nếu thân ta có tội thì quyến thuộc cũng không thể cứu. Biết nó là vô thường, nên nhớ nghĩ như vậy mà hành đạo.

3. Nhớ nghĩ về sự tinh tấn, phải khiến cho thân, khẩu, ý luôn đoan nghiêm thì giữ đạo không khó khăn.

4. Nhớ nghĩ đến sự khiêm cung, không tự kiêu, tự đại, phải vâng theo sự chỉ bảo của bậc minh triết, kính thuận lời răn dạy trớc đây chưa được nghe, vì đấy là do lòng từ bi mà chỉ dạy.

5. Nhớ nghĩ về sự hàng phục tâm ý, không chạy theo sáu tình, nên chế ngự ba độc tham dâm, giận dữ, si mê, không tạo tà hạnh.

6. Nhớ nghĩ biết trong thân, toàn là đồ xú uế, chỉ là hơi lạnh máu nóng, có gì để tham đắm?!

7. Nhớ nghĩ về việc tự quán sát. Thân hình như đất bụi, nghĩ rằng nó có thể chết vào một ngày nào đó, kể từ mới tạo dựng Trời Đất, mạng sống con người từ xưa đến nay, không ai là không chết.

Thế gian như mộng, nhìn thấy sự vật đáng yêu, đâu biết rằng nó chỉ như sự biến hóa, khi tỉnh ngộ mới rõ là không. Nên biết đó là huyền ảo, đừng để con mắt mình bị đánh lừa.

Thực hành bảy pháp như vậy thì chánh pháp được trụ lâu dài.

Lại nữa, này các Tỳ Kheo, có sáu pháp tôn trọng nên khéo nhớ nghĩ, thực hành, thì chánh pháp có thể được trụ lâu dài.

1. Tu tập về thân với tâm từ ái, thực hành trọng nhiệm này, thảy đều lấy sự thanh tịnh hòa hợp của Thánh, bằng sự hòa kính, mà đối sử với những bạn người cùng học, đoàn kết không tranh cãi, cùng xây dựng lẫn nhau, cùng giữ gìn đạo hạnh.

2. Tu tập thiện hành của miệt mà khởi tâm từ ái.

3. Tu tập về ý, mà khởi tâm từ ái.

4. Thọ nhận được các thứ y phục, thức ăn uống bình bát và những vật dụng khác một cách đúng pháp không nên tiếc của, che giấu.

5. Giữ giới không phạm, không vi phạm giới thì mới có thể dạy người được.

6. Bằng chánh kiến để thành tựu sự xuất yếu để ra khỏi sinh tử, chấm dứt khổ đau, đạt được tri kiến rốt ráo.

Thực hành trọng nhiệm này, thảy đều lấy sự thanh tịnh hòa hợp của Thánh, bằng sự hòa kính, mà đối xử với những bạn người cùng học, đoàn kết không tranh cãi, cùng xây dựng lẫn nhau, cùng giữ gìn đạo hạnh.

Lại nữa, Tỳ Kheo phải thương yêu tất cả côn trùng, cho đến đối với con trùng, con kiến, cũng phải thể hiện tâm từ. Đối với sự chết của con người phải nên buồn thương.

Kẻ ấy được làm người, nếu không hiểu biết về đạo thì chỉ khiến cả nhà khóc lóc, cũng chẳng rõ khi chết rồi, thần thức đi về đâu?

Chỉ có người đắc đạo mới có thể biết được việc ấy. Đức Phật vì mọi người cho nên mới giảng giải rõ trong Kinh Pháp.

Vậy Kinh không thể không học, đạo không thể không hành. Trong thiên hạ có nhiều đạo, chỉ có Vương Đạo là lớn.

Phật Đạo như thế là tối thượng. Ví như vài mươi người cùng nhau bắn vào một cái đích, có người bắn trúng trước, có người bắn trúng sau, cứ bắn liên tục không dừng nghỉ thì chắc chắn sẽ trúng đích.

Lại như các dòng nước trong Trời Đất luôn chảy không ngừng, thảy đều đổ về biển. Tỳ Kheo cũng như vậy, hành đạo không ngừng nghỉ, sẽ đạt được giải thoát.

Đúng như giáo pháp của Đức Phật mà cùng tôn kính cúng dường lẫn nhau. Tụng đọc lời Phật dạy.

Tùy thời mà khuyên bảo nhau. Bốn chúng đệ tử chỉ dạy lẫn nhau. Như vậy Kinh Giáo của Phật có thể được tồn tại lâu dài.

Bấy giờ, Phật bảo Hiền Giả A Nan cùng đi đến xóm Ba liên phất. Hiền Giả liền vâng lời. Đức Phật thu xếp y bát, đi qua thành Vương Xá, mới được nửa đường, Ngài bỗng dừng chân nơi vườn Vua.

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Tất cả hãy lắng nghe! Người hành đạo phải biết rõ về Bốn Đế. Phàm người không biết rõ về Bốn Đế nên mãi trôi lăn, qua lại trong sanh tử, chẳng khi nào dừng. Vì vậy, ta muốn mở mang tâm ý cho các ngươi.

Những gì là bốn?

Một là biết khổ của khổ. Đó là Chân Đế.

Hai là khổ do tập mà sanh. Đó là Chân Đế.

Ba là sự diệt tận tập khởi của khổ. Đó là Chân Đế.

Bốn là con đường đưa đến diệt tận tập khởi của khổ. Đó là Chân Đế.

Đối với khổ mà không nhận biết rõ nên mới trôi giạt mãi trong nẻo sanh tử không dừng. Vậy nên phải biết rõ về Khổ Đế.

Khổ là: Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, ưu sầu buồn bực là khổ, yêu thương mà xa lìa là khổ, mong cầu mà chẳng đạt được là khổ. Nói tóm lại, năm thạnh ấm là khổ.

Đã biết rõ về khổ như vậy rồi thì có thể đoạn trừ tập khởi tức là ái.

Đó gọi là được con mắt, cho đến hết đời này về sau không còn khổ nữa.

Bởi vì tập là do từ ái, Đạo Đế là con đường đưa đến diệt tận tập khởi của khổ. Có con mắt để thấy pháp, chứng pháp, sự sanh đã dứt, đời sau không còn thọ sanh.

Đã thấy Chân Đế liền đạt được đạo nhãn, không còn trở lại nẻo sanh tử, con đường dài ấy đã vĩnh viễn chấm dứt. Như vậy, này Tỳ Kheo, lại còn phải biết là đạo có được tám hạnh.

Những gì là tám?

1. Chuyên tâm thọ trì Kinh Pháp của Phật.

2. Bỏ ái dục, không tranh cãi với thế gian.

3. Trọn đời không làm các việc sát sinh, trộm cắp, dâm dục.

4. Không được lừa dối, dua nịnh, chửi mắng.

5. Không được ganh ghét, tham lam, keo kiệt, bất tín.

6. Nhớ nghĩ đến sự vô thường, khổ, không, vô ngã.

7. Quán trong thân người toàn là các thứ xú uế, dơ nhớp.

8. Không tham đắm về thân mạng, biết rằng cuối cùng là trở về với đất bụi.

Các vị Phật thời quá khứ đều thấy rõ về Bốn Đế này. Các vị Phật thời vị lai cũng thấy rõ Bốn Đế ấy. Những ai tham luyến việc ân ái, nhà cửa, cùng ưa thích về tuổi thọ, vinh hoa phú quý của thế gian, cuối cùng không thể đạt được giải thoát. Đạo do tâm sanh.

Tâm thanh tịnh thì đạt được đạo. Tiếp theo, giữ tâm đoan chánh, không phạm năm giới sẽ được sanh lên Cõi Trời. Thứ nữa là tin đạo, thích học Kinh Pháp, về sau có thể được làm người. Nếu muốn đoạn tuyệt các cõi ác là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ thì phải nhất tâm phụng hành Kinh giới.

Nay Phật vì mọi người trong thế gian, khiến họ giải thoát khỏi sanh tử, nên khai mở Chánh Đạo. Những người muốn học đạo cần phải suy tư đúng đắn.

Phật cùng Hiền Giả A Nan trước tiên đến ba liên phất, dừng chân bên một gốc cây Thần ở ngoài thành. Các Phạm Chí, Cư Sĩ nghe tin Đức Phật cùng các đệ tử đến, họ đều ra ngoài thành, muốn đến để được gặp và cúng dường Đức Phật.

Có người mang chiếu, có người mang nệm, có người mang nước và xách đèn cùng đi tới chỗ Đức Phật, cung kính đảnh lễ rồi đứng qua một bên.

Đức Phật nói với các Phạm Chí, Cư Sĩ: Con người ở thế gian, ham muốn dục lạc, tâm ý buông lung thì có năm điều hao tổn:

1. Tự mình phóng túng, tài sản ngày một giảm.

2. Tự mình phóng túng làm nguy hại đến thân, mất đạo.

3. Tự mình phóng túng nên mọi người không kính nể, lúc chết phải hối hận.

4. Tự mình phóng túng bị nhơ danh, gây tiếng xấu, thiên hạ đều nghe.

5. Tự mình phóng túng, khi chết thần thức bị đọa vào ba đường ác.

Nếu ai hàng phục được tâm, không phóng túng thì có đầy đủ năm điều phước đức:

1. Tự mình biết kềm chế, giữ gìn thì tài sản ngày một tăng.

2. Tự mình biết kềm chế, giữ gìn thì được gần với ý đạo.

3. Tự mình biết kềm chế, giữ gìn thì mọi người kính yêu, khi chết không hối hận.

4. Tự mình biết kềm chế, giữ gìn thì được tiếng tốt, danh thơm, mọi người đều biết.

5. Tự mình biết kềm chế, giữ gìn thì khi chết thần thức được sanh lên Cõi Trời, cảnh giới phước đức.

Người tự mình không buông lung thì có năm điều thiện ấy, phải luôn nhớ nghĩ.

Đức Phật vì mọi người thuyết pháp, giáo hóa họ theo con đường chánh, cùng với pháp yếu, khiến ai nấy đều hoan hỉ. Những người nghe cùng đến trước đảnh lễ nơi chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra.

Bấy giờ Đức Phật đi đến xóm A Vệ, ngồi cạnh một gốc cây, dùng tâm thần diệu cùng mắt đạo xem thấy Chư Thiên nơi Cõi Trời đang sai khiến Hiền Thần lo bảo vệ vùng đất này. Hiền Giả A Nan từ chỗ ngồi Thiền đứng dậy, cúi lạy Đức Phật rồi đứng qua một bên.

Đức Phật hỏi Hiền Giả A Nan: Ai lo liệu công việc xây cất thành quách nơi ba liên phất này?

Thưa: Đó là do Đại Thần Vũ Xá của nước Ma Kiệt xây cất, nhằm ngăn chận sự xâm phạm của nước Việt Kỳ.

Đức Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Vũ Xá là vị quan hiền mới biết lo tính như vậy. Ta thấy các vị Trời Thần Diệu ở Cõi Trời Đao Lợi cùng nhau hộ trì đất này. Đất đai nào được Thiên Thần bảo vệ, thì đã an ổn mà lại sang quý.

Lại nữa, cuộc đất này nằm trong phạm vi gần gũi với Cõi Trời. Vị Thần Chủ đất này là Nhân Ý luôn hộ trì nước này được tồn tại lâu dài và càng tăng trưởng hơn nữa. Chắc chắn xứ này có nhiều bậc Thánh Hiền, nhân trí, hào kiệt hơn các nước khác, cho nên cũng không thể phá hoại được.

Thành này về lâu sau, như khi muốn phá hoại phải có ba nguyên nhân:

Một, lửa lớn.

Hai, nước lớn.

Ba, người trong nước và bên ngoài cùng âm mưu với nhau thì mới có thể phá hoại được. Vũ Xá nghe Đức Phật cùng chúng đệ tử đi đến nơi đây, liền nương oai của Vua, sửa soạn năm trăm cỗ xe, ra khỏi thành nhằm đến yết kiến, cúng dường Đức Phật.

Khi tới nơi, Vũ Xá liền xuống xe, đi bộ vào cửa của khu vườn, trông thấy Phật hoan hỉ, sắc diện khiêm cung, từ tốn, khí sắc đáng tôn quý, Vũ Xá liền vái chào đúng lễ nghi rồi đứng qua một bên.

Đức Phật giảng nói pháp cho ông nghe, giáo hóa theo nẻo chánh, cùng với nhiều pháp yếu.

Ông Vũ Xá vui mừng, bèn nhích khỏi chỗ ngồi mà bạch rằng: Con muốn dâng cúng một bữa ăn nhỏ, cúi mong Ngài cùng Thánh Chúng đồng hạ cố. Đức Phật liền im lặng nhận lời.

Ông liền đứng dậy đảnh lễ Đức Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi trở về. Đại Thần trở về nhà rồi, suốt cả đêm lo sắm đủ các thứ đồ ăn thức uống ngon, bổ, lại sửa sang phòng ốc, bên trong đặt ghế ngồi.

Sáng sớm, ông đi đến bạch Đức Phật: Trai phạn đã chuẩn bị xong, cúi mong Đức Phật biết cho. Đức Phật liền khoác y cầm bát, cùng chúng đệ tử đồng đi đến nhà Vũ Xá. Ngài ngồi chỗ cao hơn trước đại chúng. Vũ Xá tự tay mình bưng dọn thức ăn và sớt thức ăn vào bát Đức Phật.

Khi ăn uống rửa tay xong, ông đứng lên bạch Phật: Con đã tạo phước duyên này, cúi mong Đức Phật chú nguyện cho dân chúng cùng tất cả Trời Người ở trong nước này luôn luôn được an lạc.

Đức Phật chú nguyện: Phật tùy hỷ ngươi. Vì Trời và người mà cúng dường, dẫn dắt dân chúng trong nước.

Những ai cúng thức ăn cho Phật và Tỳ Kheo Tăng, tán dương chánh pháp, thọ nhận giáo pháp trí tuệ, phụng hành Kinh giới, ta đều chú nguyện cho họ: Đáng kính thì biết kính, việc đáng thờ thì biết thờ, bố thí rộng rãi, cùng thương yêu cùng khắp, có tâm từ bi thương xót, mong cho tất cả mọi người thường được phước lợi, thấy được chánh đạo. đại Thần Vũ Xá vui mừng.

Đức Phật lại dạy: Ông ở đời này tuy mắc việc quan, nhưng nhờ phước đức này, về sau chắc chắn được giải thoát. Nếu ai cúng dường trai phạn cho Phật, cùng những Bậc Hiền Thiện chân chính trì giới, nhờ Sa Môn chú nguyện, thì trọn đời được lợi ích.

Lại phải nên biết, nếu muốn làm quan hay chỉ là cư sĩ, đều không nên có tâm tham, không nên có tâm xa xỉ, không nên khởi tâm kiêu mạn, không nên có tâm bạo ngược, không nên có tâm khoái lạc.

Bỏ năm thứ tâm này về sau sẽ không hối hận về những lỗi lầm của mình, chết được sanh lên Cõi Trời, trừ bỏ tội lỗi trong nẻo ác. Đức Phật dạy xong, từ chỗ ngồi đứng dậy, ra khỏi cửa thành phía Đông.

Vũ Xá gọi kẻ hầu bảo: Hãy gọi cửa thành này là cửa Cù Đàm, bến đò Ngài đi qua thì gọi là bến Cù Đàm. Khi ấy, dân chúng có người đi thuyền lớn, có người đi thuyền nhỏ, có người đi bè tre, có người dùng bè gỗ để qua sông rất đông.

Đức Phật ngồi nhập định tư duy: Ngày xưa, khi ta chưa thành Phật, muốn qua đây, ta đi trên bè gỗ không biết bao nhiêu lần. Nay ta đã giải thoát rồi, không còn dùng bè gỗ ấy nữa, cũng khiến cho các đệ tử được xa lìa điều ấy.

Đức Phật xuất định, tự nói bài tụng:

Phật là hải Thuyền Sư,

Pháp là cầu sang sông.

Là cỗ xe đại thừa,

Độ hết thảy Trời người.

Cũng là người giải thoát,

Sang bờ thành Phật Đạo.

Khiến tất cả đệ tử,

Giải thoát đạt Niết Bàn.

Bấy giờ Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan: Tất cả hãy đi đến ấp Câu Lợi.

Tôn Giả vâng lời cùng đi.

Đến nơi, ngồi dưới một gốc cây, Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Tất cả hãy lắng nghe. Hãy thọ trì giới pháp thanh tịnh, nên tập trung tâm ý tư duy, nên tu tập để phát huy trí huệ. Ba điều ấy một khi tu tập đã đầy đủ ù, lại xa lìa sự cấu uế của dâm nộ si.

Đó gọi là chánh thức vượt qua tai họa của dục, do vậy, bằng tự lực mà giải thoát, bằng nhất tâm mà biết rằng: Sự sanh đã dứt hết, hạnh thanh tịnh đã trụ vững, điều cần làm đã làm, do tánh hiền thiện nên không tranh cãi với thế gian. Đã biết về thế sự, phải tự lo thân mình, nên ở nơi vắng lặng mà tư duy bên trong, tâm ý liền sáng, ba thứ cấu nhiễm đã trừ, liền đạt được đạo, tâm không còn dong ruổi, cũng không còn tham đắm vướng mắc.

Giống như vị quốc Vương là chủ của muôn dân. Tỳ Kheo có năng lực tự tư duy, thấy vạn cảnh đều do tâm làm chủ. Đức Phật cùng Tôn Giả A Nan đi đến xóm Hỷ Dự dừng chân bên cây Kiền Kỳ gần bờ sông.

Các đệ tử bèn vào thành khất thực, tắm rửa rồi trở về đảnh lễ Đức Phật và thưa: Nước này đang có bệnh dịch khiến nhiều người chết.

Sáng nay chúng con đều nghe có các Thanh Tín Sĩ như: Huyền Đảm, Thời Tiên, Sơ Động, Hoặc Chấn, Thục Lương, Khoái Hiền, Bá Tông, Kiêm Đốc, Đức Xứng, Tịnh Cao, cả thảy mười người đều qua đời, những người ấy thân chết rồi thì thần thức sẽ đi về đâu?

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Mười người ấy đã dứt bỏ thần thức tự nhiên, được sanh lên trên mười tám Cõi Trời, vào quả vị Bất Hoàn, không còn sanh trở lại để thọ pháp thế gian nữa. Vả lại, những người chết trong nước này, không phải chỉ như vậy.

Phật bằng Thiên nhãn quan sát thấy năm trăm Thanh Tín Sĩ, tất cả đều như Nan Đề… đã xa lìa ba thứ cấu uế, đoạn tuyệt năm đạo, chết đều sanh lên địa vị của Bất Hoàn ở bên trên mà đạt Nê Hoàn ở đó.

Lại có ba trăm Thanh Tín Sĩ, đã đoạn trừ ba kết, không còn dâm, nộ, si, thăng lên quả vị Tần Lai, sau Hạ Sanh trở lại hạ giới, rồi sẽ thấy được biên vực tận cùng của sự khổ.

Lại có năm trăm Thanh Tín Nữ, đều đã được bốn hy, đã dứt hết ba kiết, được quả Câu Cảng, xa lìa ba cõi xấu. Sanh trong Cõi Trời hay nhân gian, không quá bảy lần, liền đạt được đạo quả ứng chân.

Bấy giờ Đức Phật bảo các Tỳ Kheo: Các ngươi nói về sự chết của những người ấy như thế là quấy rầy ta. Nhưng ta đã là Phật, nên không còn nhận chịu điều đó, cũng chẳng còn lo sợ.

Thật là vi diệu! Sanh tử luôn có lúc. Phàm Chư Phật xuất hiện, tuy gọi là sanh nơi thế gian, nhưng không có Phật Pháp tánh vẫn vậy.

Vì sao vậy?

Như Lai đã an trụ pháp tánh, cho nên không gì không biết. Đã rõ về sự sanh này, trình bày phân minh, cho nên gọi là Diệu. Do cái này có nên cái kia có, do cái này không nên cái kia không, do cái này sanh nên cái kia sanh, do cái này diệt nên cái kia diệt.

Vì sao vậy?

Vì tham dục khởi nên mới bị vô minh, duyên vô minh có hành, duyên hành có thức, duyên thức có danh sắc, duyên danh sắc có lục nhập, duyên lục nhập có xúc, duyên xúc có thọ, duyên thọ có ái, duyên ái có thủ, duyên thủ có hữu, duyên hữu có sanh, duyên sanh có già chết, buồn sầu, khổ bất mãn, bực bội, đưa đến toàn bộ sự khổ đau được tạo nên.

Hữu là nguồn gốc của sanh tử, nó sẽ xoay chuyển như bánh xe, vận hành không bao giờ ngừng. Do si vô minh nên mới có sanh tử.

Ví như khiến cho vô minh không còn dấu vết, vô dục, tức vô minh đã diệt thì hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt.

Xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sanh diệt, sanh diệt nên già chết, buồn sầu, khổ não, đưa đến toàn bộ khối khổ đau được tạo thành đều bị tiêu diệt.

Cho nên trước đây Ta đã nói, kẻ si mê thì có sanh tử, người trí huệ giữ đạo nên không còn sanh tử nữa. Hãy suy niệm về điều ấy, phải kiềm chế tâm mình mới không còn rơi vào đường sanh tử nữa.

Lại nữa nếu muốn gần với đạo nên có bốn điều hoan hỷ, phải khéo suy tư, thực hành:

1. Niệm Phật, ý hoan hỷ, không xả ly.

2. Niệm Pháp, ý hoan hỷ, không xả ly.

3. Niệm chúng, ý hoan hỷ, không xả ly.

4. Niệm giới, ý hoan hỷ, không xả ly.

Niệm về bốn điều hoan hỷ này, khiến luôn đầy đủ, tự thấy rõ, mong đạt Chánh Đạo, dốc cầu giải thoát, chắc chắn có thể đoạn trừ ba đường ác là địa ngục, súc sanh và quỷ thần, dẫn đến là đạt được quả vị Câu Cảng, không bị đọa vào ác các cõi, chỉ còn sanh lại ở Cõi Trời, người không quá bảy lần, là giải thoát khỏi mọi khổ đau.

Đức Phật bảo Hiền Giả A Nan đi đến nước Duy Da Ly. Hiền Giả liền vâng lời cùng đi. Đức Phật vào thành Câu Lợi Lịch, rồi dừng chân trong vườn xoài của kỹ nữ ở ngoài thành.

Nại Nữ nghe Đức Phật cùng các đệ tử từ nước Việt Kỳ đến, liền sửa soạn xe cộ, y phục, cùng năm trăm nữ đệ tử đồng ra khỏi thành, đi đến vườn xoài muốn được gặp và lễ bái.

Đức Phật từ xa trông thấy năm trăm người nữ đến, liền bảo các Tỳ Kheo là: Khi thấy họ tất cả đều phải thu nhiếp tâm ý, nội quán, phải tự giữ đoan nghiêm tâm. Những y phục cùng trang sức của họ giống như cái bình vẽ, tuy bên ngoài màu sắc đẹp đẽ, nhưng bên trong toàn chứa những thứ dơ nhớp hôi thối. Nên biết các người con gái đẹp đều là những cái bình vẽ vừa nói.

Người hành đạo thì không nên để chúng mê hoặc, cho nên phải tích cực chế ngự, tập trung tư duy và phân biệt. Nàng Nại Nữ này đến đây cũng là để nghe ta chỉ dạy.

Sao gọi là phải tích cực chế ngự?

Là nếu pháp ác đã sanh thì phải đoạn trừ liền, tinh tấn thực hiện, tự giữ lấy tâm ý cho đoan nghiêm. Nếu pháp ác chưa sanh thì đừng cho sanh, tinh tấn thực hiện, tự thu nhiếp tâm ý cho đoan nghiêm. Nếu pháp lành chưa sinh thì khiến nó phát sanh, tinh tấn thực hiện, tự giữ vững tâm ý cho đoan nghiêm.

Nếu pháp lành đã sanh, lập chí đừng quên, khiến nó luôn tăng trưởng, tinh tấn thực hiện, tự giữ tâm ý mình cho đoan nghiêm.

Đó là điều phải làm. Thà bị gân cốt chặt đứt, thân thể bị tan nát, chớ đừng theo vọng tâm mà làm ác. Đó gọi là kiên quyết kiềm chế vọng tâm.

Sao gọi là tập trung tư duy?

Là quán thân trên nội thân, quán thân trên ngoại thân, quán nội ngoại thân, tư niệm phân biệt, đoạn trừ, không xao lãng. Hãy quán thọ trên cảm thọ bên trong, quán thọ trên cảm thọ bên ngoài, quán thọ trên nội ngoại thọ, tư niệm phân biệt đoạn trừ, ý không xao lãng.

Hãy quán tâm trên nội tâm, quán tâm trên ngoại tâm, quán tâm trên nội ngoại tâm, tư niệm phân biệt đoạn trừ, tâm ý không xao lãng.

Hãy quán pháp trên nội pháp, quán pháp trên ngoại pháp. Quán pháp trên nội ngoại pháp, tư niệm phân biệt, đoạn trừ, tâm ý không xao lãng. Đó gọi là chí duy.

Sao gọi là phân biệt?

Biết trường hợp nên làm. Trường hợp không nên làm. Vì tùy theo trường hợp chân chánh mà thực hành riêng biệt, đó gọi là phân biệt. Phàm ai có thể tích cực chế ngự, tập trung tư duy, và phân biệt thì đó là người có sức mạnh, chẳng phải chỉ những tráng sĩ có thể lực dồi dào mới là người có sức mạnh.

Nếu ai có thể bỏ ác theo thiện thì gọi đó là người có sức mạnh tối thượng. Từ khi Ta cầu quả vị Phật đến nay, đã tự chiến đấu với tâm mình trong vô số kiếp, nhờ không nghe theo tâm tà nên nay mới đạt được quả vị Phật nơi thế gian, và cũng có thể an nghỉ.

Tâm ý của các ngươi từ lâu đã ở trong chỗ bất tịnh, phải tự vươn lên, dứt sạch tâm ý ấy để thoát khỏi các khổ. Nếu thấy những người nữ đến, hãy như lời dạy của ta. Bấy giờ, Nại Nữ đi đến, cung kính đảnh lễ Đức Phật rồi đứng qua một bên.

Đức Phật hỏi: Hiện giờ, ý người nữ các ngươi thế nào?

Thưa: Chúng con đã thọ lãnh ơn đức lớn của Phật, được nghe giáo pháp khiến cho kẻ ngu si tỉnh ngộ, sớm tối luôn tự căn dặn lòng mình không dám có tâm tà nữa.

Đức Phật bảo Nại Nữ: Người nào ham thích tà dâm, thì có năm điều tổn hại:

1. Nhiều tiếng không tốt.

2. Bị phép Vua theo dõi.

3. Ôm lòng lo sợ, có nhiều nghi ngờ.

4. Chết bị đọa vào địa ngục.

5. Tội trong địa ngục hết rồi phải thọ thân hình súc sanh. Tất cả điều đó do dục mà ra, hãy tự diệt trừ tâm dục.

Người nào không tà dâm thì có năm điều làm cho phước đức tăng trưởng:

1. Được nhiều người khen ngợi.

2. Không sợ phép nước theo dõi.

3. Thân được an ổn.

4. Lúc chết được sanh lên Trời.

5. Được đạo Nê Hoàn thanh tịnh.

Do đó, tự mình cần phải nhàm chán những tai họa do dục sanh ra. Nữ nhân sanh bệnh, nguyệt kỳ bất tịnh, luôn bị gò bó, trói buộc, đánh đập, không được tự do. Nếu thọ nhận, thực hành Kinh Luật thì có thể đạt được đạo thanh tịnh như Phật. Đức Phật thuyết pháp, giảng nói nhiều pháp yếu cho Nại Nữ nghe.

Nàng rất vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ mọp, bạch Phật: Con muốn bày biện các thứ đồ ăn thức uống thịnh soạn, cúi mong Đức Phật cùng Thánh Chúng đồng thể hiện oai thần hạ cố. Đức Phật im lặng nhận lời. Nại Nữ liền đảnh lễ rồi lui ra về.

Nàng đi chưa lâu thì các tộc họ cao quý ở Duy Da Ly, có các Ly Xa, nghe Đức Phật cùng các đệ tử đến, cách thành bảy dặm, họ liền vâng theo oai thần của Vua, sửa soạn loại xe bốn màu, đi tới, muốn được yết kiến Đức Phật. Trong các Ly Xa có người cỡi ngựa xanh, xe xanh, áo xanh, lọng xanh, cờ phướn xanh, đám quan thuộc đều dùng màu xanh.

Có người cỡi ngựa vàng, xe vàng, y vàng, lọng vàng, cờ phướn vàng, đám quan thuộc đều dùng màu vàng.

Có người cỡi ngựa đỏ, xe đỏ, áo đỏ, lọng đỏ, cờ phướn đỏ, đám quan thuộc đều dùng màu đỏ.

Có người cỡi ngựa trắng, xe trắng, y phục trắng, lọng trắng, cờ phướn trắng, đám quan thuộc đều dùng màu trắng.

Đức Phật thấy đoàn xe, ngựa cùng hàng mười vạn người chật cả đường đi đến, liền bảo các Tỳ Kheo: Các vị muốn thấy đám thị tùng ra vào nơi vườn của Thiên Đế trên Cõi Trời Đao Lợi như thế nào thì đoàn người ở đây cũng như vậy, không khác. Các Ly xa đến đều xuống xe đi bộ, vào vườn xoài đảnh lễ Đức Phật xong thì ngồi qua một bên.

Đức Phật Thuyết Pháp, giảng dạy, chỉ bày pháp yếu mọi người nghe.

Có một người tên là Tịnh Ký, từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, hướng về Đức Phật tự trình bày: Mỗi khi nghe công đức của Phật, to lớn vòi vọi, trên Trời, dưới Trời không ai là không ngưỡng mộ, kính phục. Con thường ở chỗ mình, sớm tối luôn kính ngưỡng, lại được giáo hóa theo nẻo thanh tịnh, cho nên không dám không để ý đến.

Đức Phật bảo Tịnh Ký: Những người hiền trí trong thiên hạ mới biết kính Phật. Hễ ai kính Phật liền được phước đức, khi chết đều được sanh lên Cõi Trời, không đọa vào đường ác.

Bấy giờ, Tịnh Ký nói bài kệ khen ngợi Phật:

Kính gặp Đấng Pháp Vương,

Tâm chánh, đạo lực an,

Phật là bậc Tối Thắng,

Danh nêu như núi tuyết,

Như hoa sạch, không nghi,

Như gần hương hoan hỷ,

Ngắm thân Ngài không chán,

Sáng chói như Trăng rằm,

Trí Phật thật cao diệu,

Sáng tỏa không chút bụi,

Xin giữ giới thanh tín,

Tự quy y Tam Tôn.

Lúc này, trong số đông đang ngồi quanh có năm trăm vị trưởng giả đều cởi áo choàng quý giá của mình tặng cho Tịnh Ký.

Tịnh Ký nhận lấy các tấm áo choàng quý giá ấy đến trước Đức Phật, bạch: Những vị gia chủ này nghe lời giảng nói về các pháp thiện của Đức Phật nên rất hoan hỷ, cùng nhau đem năm trăm áo choàng quý giá này dâng lên cúng dường Đức Thế Tôn, mong Ngài thương xót mà thọ nhận.

Đức Phật nhận xong liền bảo: Các vị Hiền Sĩ nên biết! Phật là Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Thành, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu, xuất hiện ở thế gian, có năm pháp tự nhiên rất khó có được.

***