Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bát Nhã Ba La Mật

PHẬT THUYẾT

KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
 

PHẨM BỐN MƯƠI MỐT

PHẨM TÍN HỦY
 

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Đại Bồ Tát tin hiểu bát nhã Ba la mật này, Đại Bồ Tát ấy từ đâu sanh nơi đây?

Phát Tâm Bồ Đề đã được bao lâu?

Đã cúng dường bao nhiêu Đức Phật?

Thật hành sáu Ba la mật được bao lâu mà nay có thể tùy thuận và hiểu thâm nghĩa bát nhã Ba la mật?

Đức Phật nói: Đại Bồ Tát này cúng dường Chư Phật mười phương đến sanh nơi đây. Đại Bồ Tát này đã phát tâm vô thượng bồ đề từ vô lượng vô biên A tăng kỳ trăm ngàn muôn ức kiếp. Từ lúc mới phát tâm bồ đề, Đại Bồ Tát này thường thật hành sáu Ba la mật.

Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát này hoặc thấy hay nghe bát nhã Ba la mật liền nghĩ rằng tôi thấy Phật, nghe Phật thuyết pháp.

Này Xá Lợi Phất! Đại Bồ Tát này hay tùy thuận hiểu thâm nghĩa bát nhã Ba la mật. Vì vô tướng, vô nhị và vô sở đắc vậy.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Bát Nhã Ba la mật này có thể nghe, có thể thấy chăng?

Đức Phật nói: Bát nhã Ba la mật này không có ai nghe, cũng không có ai thấy. Bát nhã Ba la mật không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.

Thiền Na Ba la mật, Tỳ Lê Gia Ba la mật, Sằn Đề Ba la mật, Thi La Ba la mật và Đàn Na Ba la mật không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.

Tứ Niệm Xứ đến Bát Thánh Đạo không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy. Thập lực đến bất cộng pháp không nghe thấy, vì các pháp độn vậy. Phật và Phật Đạo không nghe không thấy, vì các pháp độn vậy.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thật hành đạo bao lâu mà Bồ Tát này có thể thật hành thâm bát nhã Ba la mật này?

Đức Phật nói: Này Tu Bồ Đề! Trong đây phải phân biệt để nói. Có Đại Bồ Tát sơ phát tâm tập thật hành thâm sáu Ba la mật, do sứ phương tiện nên đối với các pháp không chỗ phá hoại, chẳng thấy các pháp có pháp nào là không lợi ích, cũng trọn chẳng xa rời thật hành sáu Ba la mật, cũng chẳng xa lìa Chư Phật.

Từ một Thế Giới đến một Thế Giới, nếu muốn dùng sức thiện căn để cúng dường Chư Phật, thời tùy ý liền được. Vĩnh viễn chẳng còn thác sanh trong bụng bà mẹ nhân loại.

Trọn chẳng rời những thần thông, trọn chẳng sanh những phiền não và tâm niệm Thanh Văn, Bích Chi Phật. Từ một Quốc Độ đến một Quốc Độ để thành tựu chúng sanh thanh tịnh Phật Độ.

Này Tu Bồ Đề! Chư Đại Bồ Tát có thể tập thật hành bát nhã Ba la mật như vậy.

Lại Này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thấy Chư Phật nhiều. Hoặc từ vô lượng trăm ngàn ức kiếp theo Chư Phật thật hành sáu Ba la mật, vì không sức phương tiện, đều vì có sở đắc, nên lúc nghe giảng thuyết thâm bát nhã Ba la mật, liền từ trong chúng hội bỏ đi, chẳng cung kính thâm bát nhã Ba la mật và Chư Phật.

Chư Đại Bồ Tát ấy hiện này ngồi trong đại chúng này, nghe thâm bát nhã Ba la mật, vì không thích nên bèn bỏ đi.

Tại sao vậy?

Vì những người này đời trước lúc nghe nói thâm bát nhã Ba la mật bèn bỏ đi nên đời nay nghe nói thâm bát nhã Ba la mật nên cũng bỏ đi, thân tâm không hòa. Những người này gieo trồng giống nghiệp duyên ngu si. Do nghiệp duyên ngu si nên khi nghe giảng thâm bát nhã Ba la mật bèn khinh chê.

Vì khinh chê bát nhã Ba la mật nên tức là khinh chê nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí của Tam Thế Chư Phật.

Vì người này khinh che nhất thiết trí của Tam Thế Chư Phật nên phát khởi nghiệp phá pháp. Do tội phá pháp kết hợp nhân duyên nên đọa trong đại địa ngục vô lượng trăm ngàn muôn ức năm. Những người phá pháp này, từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục.

Nơi đó, lúc hỏa kiếp pháp khởi, người này lại dời đến một đại địa ngục ở cõi khác mà thác sanh, từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục.

Nếu lúc cõi đó hỏa tai phát khởi, thời người này lại thác sanh vào đại địa ngục ở cõi khác. Lần lượt thác sanh như vậy khắp Thế Giới mười phương.

Vì tội phá pháp chưa hết, nên sanh trở lại cõi này, từ một đại địa ngục đến một đại địa ngục thọ vô lượng khổ. Cõi này phát khởi hỏa kiếp lại thác sanh vào đại địa ngục cõi khác. Người này lúc thác sanh vào súc sanh chịu khổ vì tội phá pháp cũng vậy.

Lúc tội nặng lần mỏng nhẹ, người này hoặc được thân nhân loại, sanh vào nhà người sanh manh, hoặc sanh vào nhà Chiên Đà La, sanh vào những nhà hạ tiện như hốt phân hay khiêng thây người chết. Hoặc không có con mắt, hoặc một mắt, hoặc mắt mù, không lưỡi, không tai, không chân tay. Nơi người thác sanh không có Phật, không có chánh pháp, không Phật đệ tử.

Tại sao vậy?

Vì tội phá pháp chứa nhóm quá sâu nặng nên thọ lấy quả báo như vậy.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Tội ngũ nghịch cùng tội phá pháp có tương tợ nhau không?

Đức Phật nói: Chẳng nên bảo là tương tợ.

Tại sao vậy?

Nếu có người nghe nói thâm bát nhã Ba la mật mà chẳng tin nổi rồi hủy báng rằng chẳng nên học pháp ấy. Đó là phi pháp, chẳng phải pháp lành, chẳng phải lời Phật dạy, chẳng phải Phật Giáo.

Người này tự mình hủy báng, cũng bảo người khác hủy báng bát nhã Ba la mật.

Người này tự phá hoại thân mình, cũng phá hoại thân người khác.

Người này tự uống thuốc độc dược giết thân mình, cũng đầu độc người khác.

Người này tự làm mất thân mình, cũng làm mất thân người khác.

Người này tự chẳng tin, chẳng biết thâm bát nhã Ba la mật, cũng làm người khác chẳng tin, chẳng biết.

Này Xá Lợi Phất! Ta còn chẳng cho nghe danh tự của người ấy, huống là mắt thấy và cùng ở.

Tại sao vậy?

Phải biết người này gọi là kẻ làm nhơ chánh pháp, bị sa vào tánh đen trược suy hoại. Những ai nghe và tin dùng lời người này thời cũng thọ khổ như vậy.

Này Xá Lợi Phất! Nếu người nào phá hủy bát nhã Ba la mật thời gọi là kẻ hoại pháp.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Đức Thế Tôn nói người hoại pháp phải mang lấy trọng tội mà chẳng nói thân thể lớn nhỏ của người này phải thọ.

Đức Phật nói: Chẳng cần nói người này thọ thân lớn nhỏ.

Tại sao vậy?

Người phá pháp này nếu nghe thân thể lớn nhỏ mà mình phải thọ thời sẽ thổ máu nóng, hoặc chết hoặc sắp chết. Người phá pháp này nghe thân thể như vậy, có trọng tội như vậy, sẽ rất buồn lo như mũi tên đâm vào tim, sẽ lần khô héo mà nghĩ rằng vì tội phá pháp nên mắc lấy thân đại quỷ thọ vô lượng khổ như vậy.

Vì thế nên Phật chẳng cho Xá Lợi Phất hỏi thân lớn nhỏ mà người phá pháp này phải thọ.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Xin Đức Thế Tôn nói để làm điều răn sáng suốt cho người đời sau, khiến biết rằng tội nghiệp phá pháp mắc phải thân lớn xấu thọ khổ như vậy.

Đức Phật nói: Người đời sau nếu nghe tội phá pháp nghiệp nhân dầy nặng đầy đủ phải chịu vô lượng khổ rất lâu trong đại địa ngục, cũng đủ làm điều răn sáng suốt rồi.

Ngài Xá Lợi Phất thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ tánh thiện thanh tịnh được nghe pháp này cũng đủ làm chỗ y chỉ, thà mất thân mạng chớ hủy phá chánh pháp. Họ tự nghĩ rằng nếu ta hủy phá chánh pháp thời sẽ phải thọ lấy sự khổ như vậy.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Những thiện nam, thiện nữ phải khéo nhiếp thân khẩu ý ba nghiệp, chớ để thọ lấy sự khổ như vậy, hoặc chẳng được thấy Phật, hoặc chẳng được nghe pháp, hoặc chẳng được thân cận Chư Tăng, hoặc sanh ở Quốc Độ không Phật, hoặc sanh ở nhà bần cùng, hoặc mọi người chẳng tín thọ lời nói.

Bạch Đức Thế Tôn! Do nơi thân khẩu nghiệp nhân duyên, có tội nặng phá pháp như vậy chăng?

Đức Phật nói: Do nơi khẩu nghiệp nhân duyên có tội nặng phá pháp như vậy.

Này Tu Bồ Đề! Người ngu si ấy ở trong Phật pháp xuất gia thọ giới rồi phá thâm bát nhã Ba la mật, chê bai chẳng tín thọ.

Này Tu Bồ Đề! Nếu phá bát nhã Ba la mật, chê bai bát nhã Ba la mật, thời là phá nhất thiết trí của Chư Phật mười phương. Phá nhất thiết trí là phá Phật Bảo. Phá Phật Bảo thời là phá Pháp Bảo. Phá Pháp Bảo thời là phá Tăng Bảo. Phá Tam Bảo thời là phá chánh kiến của thế gian.

Phá chánh kiến thế gian thời là phá tứ niệm xứ đến nhất thiết chủng trí. Phá nhất thiết chủng trí thời mắc vô lượng vô biên a tăng kỳ tội, thời phải thọ lấy vô lượng vô biên a tăng kỳ sự ưu khổ.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Có mấy nhân duyên mà người ngu si này chê bai phá hoại thâm bát nhã Ba la mật?

Đức Phật nói: Có bốn nhân duyên.

Một là bị ma sai sử.

Hai là chẳng tin thâm pháp, chẳng tin, chẳng hiểu, tâm không thanh tịnh.

Ba là gần gũi thầy bạn ác, tâm mê tối giải đãi, chấp chặt thân ngũ ấm.

Bốn là nhiều sân giận, tự cao, khinh người.

Này Tu Bồ Đề! Do bốn nhân duyên trên đây mà người ngu si muốn phá hoại thâm bát nhã Ba la mật.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Người tương đắc với bạn ác, gieo trồng điều bất thiện, chẳng siêng năng tinh tấn tu pháp lành thời khó tin, khó hiểu thâm bát nhã Ba la mật này.

Đức Phật nói: Đúng như vậy, người ấy khó tin, khó hiểu thâm bát nhã Ba la mật này.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào bát nhã Ba la mật này rất sâu khó tin, khó hiểu?

Đức Phật nói: Này Tu Bồ Đề! Sắc chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì tánh vô sở hữu là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức chẳng trói chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì tánh vô sở hữu là thọ, tưởng, hành, thức. Đàn Na Ba la mật đến bát nhã Ba la mật chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì tánh vô sở hữu là sáu Ba la mật. Nội không đến vô pháp hữu pháp không chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì tánh vô sở hữu là nội không đến vô pháp hữu pháp không. Tứ Niệm Xứ đến nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì tánh vô sở hữu là tứ niệm xứ đến nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì tánh vô sở hữu là tứ niệm xứ đến nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí.

Này Tu Bồ Đề! Sắc bổn tế chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì bổn tế tánh vô sở hữu là sắc. Nhẫn đến nhất thiết chủng trí bổn tế chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì bổn tế tánh vô sở hữu là nhất thiết chủng trí.

Này Tu Bồ Đề! Sắc hậu tế nhẫn đến nhất thiết chủng trí hậu tế chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì hậu tế vô sở hữu là sắc, nhẫn đến là nhất thiết chủng trí.

Này Tu Bồ Đề! Sắc hiện tại nhẫn đến nhất thiết chủng trí hiện tại chẳng trói, chẳng mở.

Tại sao vậy?

Vì hiện tại tánh vô sở hữu là sắc nhẫn đến là nhất thiết chủng trí.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Những người chẳng chuyên cần tinh tấn, chẳng gieo trồng căn lành, gần gũi bạn ác, giải đãi, ưa quên, không trí huệ thiện xảo phương tiện, thiệt khó tin, khó hiểu bát nhã Ba la mật.

Đức Phật nói: Này Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. Những người ấy thiệt khó tin khó hiểu bát nhã Ba la mật này.

Tại sao vậy?

Vì sắc thanh tịnh thời quả cũng thanh tịnh. Thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh thời quả cũng thanh tịnh. Nhẫn đến Vô Thượng Bồ Đề thanh tịnh thời quả cũng thanh tịnh. Lại vì sắc thanh tịnh tức là bát nhã Ba la mật thanh tịnh. bát nhã Ba la mật thanh tịnh tức là sắc thanh tịnh.

Nhẫn đến nhất thiết chủng trí thanh tịnh tức là bát nhã Ba la mật thanh tịnh. bát nhã Ba la mật thanh tịnh tức là nhất thiết chủng trí thanh tịnh. Sắc thanh tịnh và bát nhã Ba la mật thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại.

Nhẫn đến nhất thiết chủng trí thanh tịnh và bát nhã Ba la mật thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại.

Lại này Tu Bồ Đề! Vì chẳng hai thanh tịnh nên sắc thanh tịnh.

Vì chẳng hai thanh tịnh nên nhất thiết chủng trí thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Vì chẳng hai thanh tịnh này cùng sắc thanh tịnh đến nhất thiết chủng trí thanh tịnh không hai, không khác.

Vì ngã thanh tịnh, chúng sanh đến tri giả, kiến giả thanh tịnh nên sắc nhẫn đến nhất thiết chủng trí thanh tịnh.

Vì sắc nhẫn đến nhất thiết chủng trí thanh tịnh nên ngã chúng sanh nhẫn đến tri giả, kiến giả thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Vì ngã đến kiến giả thanh tịnh này cùng với sắc đến nhất thiết chủng trí thanh tịnh chẳng hai, chẳng khác, không đoạn, không hoại.

Này Tu Bồ Đề! Vì tham, sân, si thanh tịnh nên sắc đến nhất thiết trí thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Vì tham, sân, si thanh tịnh cùng với sắc đến nhất thiết chủng trí thanh tịnh chẳng hai, chẳng khác.

Này Tu Bồ Đề!

Vì vô minh thanh tịnh nên hành thanh tịnh.

Vì hành thanh tịnh nên thức thanh tịnh.

Vì thức thanh tịnh nên danh sắc thanh tịnh.

Vì danh sắc thanh tịnh nên lục nhập thanh tịnh.

Vì lục nhập thanh tịnh nên xúc thanh tịnh.

Vì xúc thanh tịnh nên thọ thanh tịnh.

Vì thọ thanh tịnh nên ái thanh tịnh.

Vì ái thanh tịnh nên thủ thanh tịnh.

Vì thủ thanh tịnh nên hữu thanh tịnh.

Vì hữu thanh tịnh nên sanh thanh tịnh.

Vì sanh thanh tịnh nên lão tử thanh tịnh.

Vì Lão Tử thanh tịnh nên bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Vì bát nhã Ba la mật thanh tịnh nên Thiền Na thanh tịnh.

Nhẫn đến vì Đàn Na thanh tịnh nên nội không thanh tịnh.

Vì nội không thanh tịnh nên nhẫn đến vô pháp hữu pháp không thanh tịnh.

Vì vô pháp hữu pháp không thanh tịnh nên tứ niệm xứ nhẫn đến nhất thiết trí thanh tịnh.

nhất thiết trí thanh tịnh nên nhất thiết chủng trí thanh tịnh.

Tại sao vậy?

nhất thiết trí này cùng với nhất thiết chủng trí không hai, không khác, không đoạn, không hoại.

Lại này Tu Bồ Đề! Vì bát nhã Ba la mật thanh tịnh nên sắc thanh tịnh. Nhẫn đến vì bát nhã Ba la mật thanh tịnh nên nhất thiết trí thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Vì bát nhã Ba la mật này cùng với nhất thiết trí không hai, không khác.

Này Tu Bồ Đề! Vì Thiền Na Ba la mật thanh tịnh nên nhẫn đến nhất thiết trí thanh tịnh. Nhẫn đến vì Đàn Na Ba la mật thanh tịnh nên nhẫn đến nhất thiết trí thanh tịnh. Vì nội không thanh tịnh nên nhẫn đến nhất thiết trí thanh tịnh. Vì tứ niệm xứ thanh tịnh nên nhẫn đến nhất thiết trí thanh tịnh.

Này Tu Bồ Đề! nhất thiết trí thanh tịnh nên nhẫn đến bát nhã Ba la mật thanh tịnh.

Này Tu Bồ Đề! Vì hữu vi thanh tịnh nên vô vi thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Vì hữu vi thanh tịnh nên vô vi thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Vì hữu vi thanh tịnh cùng với vô thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại.

Này Tu Bồ Đề! Vì quá khứ thanh tịnh nên vị lai và hiện tại thanh tịnh nên vị lai và hiện tại thanh tịnh.

Vì vị lai thanh tịnh nên quá khứ và hiện tại thanh tịnh.

Vì hiện tại thanh tịnh nên quá khứ và vị lai thanh tịnh.

Tại sao vậy?

Vì hiện tại thanh tịnh cùng với quá khứ và vị lai thanh tịnh không hai, không khác, không đoạn, không hoại vậy.

***