Kinh Nguyên thủy

Bộ Kinh Tập

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT SINH ĐỊA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Chi Khiêm, Đời Ngô
 

Nghe như vậy!

Một thời, Phật cùng với năm trăm vị Tỳ Kheo nghỉ bên gốc cây Ni Câu Loại, ở Tinh Xá dòng họ Thích, thuộc nước Ca Duy La Vệ.

Lúc ấy, trong thành có con của Trưởng Giả dòng họ Thích, tên là Sai Ma Kiệt đi đến chỗ Phật, đảnh lễ xong, ngồi qua một bên, chắp tay thưa: Bạch Phật! Bồ Tát thực hành hạnh gì để mau đắc đạo Chánh Giác Vô Thượng, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, đi từ Cõi Phật này đến Cõi Phật khác.

Đến khi qua đời, tâm ý không loan, không đọa vào tám chỗ nạn khổ, thường biết việc quá khứ, vị lai, thành tựu các pháp, tròn đầy mọi việc, biết rõ tất cả pháp không có chỗ chướng ngại, tin hiểu hạnh thông, chứng đắc pháp nhẫn vô sinh, luôn một long mong cầu làm Sa Môn, chưa từng phạm giới, không ham thích chỗ ở?

Phật nói: Lành thay! Sai Ma Kiệt! Con đã hỏi hạnh của Bồ Tát. Hạnh Bồ Tát lấy nhẫn nhục làm gốc. Nhờ sức nhẫn, nên mau được thành Phật, nhẫn có bốn việc.

Bốn việc đó là:

1. Nếu bị người chửi mắng thì im lặng không trả lời.

2. Nếu bị người đánh đập thì lãnh chịu mà không đánh lại.

3. Nếu bị người sân giận thì hướng lòng lành về người ấy.

4. Nếu bị người khinh chê hủy báng thì đừng nhớ nghĩ đến điều xấu ác đó.

Khi ấy, Phật nói tụng:

Đánh chửi mà không sân

Khinh chê cũng không hận

Bồ Tát nhẫn như vậy

Tu học tất sẽ đạt.

Cẩn thận, không coi thường

Tâm ý chưa từng đoạn

Không phạm, không làm ác

Như vậy mau thành Phật.

Bồ Tát thường hành nhẫn

Hết lòng hành đại từ

Cho nên được thành Phật

Được ba hai tướng tốt.

Làm theo việc người ác

Thường vui thích đánh đập

Tâm oán hại mọi người

Nóng nảy, ưa sân giận.

Gieo đầu vào lưới mê

Trọn không gần Bồ Tát

Ngu vì tham quá độ

Ngang ngược không kính lễ.

Không hiếu thuận mẹ cha

Nên chịu khổ địa ngục

Muốn mau được thành Phật

Nên tu tập giới đức

Theo lời thầy lành dạy

Tâm bình đẳng cho người.

Lại có bốn việc thực hành để mau được thành Phật.

Bốn việc đó là:

1. Ưa thích Kinh Điển và đạo Bồ Tát, hết lòng bảo vệ chánh pháp, dạy bảo mọi người.

2. Xa lìa người nữ không cùng làm việc với họ.

3. Thường vui thích làm việc bố thí cho Sa Môn, Phạm Chí.

4. Không ngủ nghỉ trái giờ giấc, tu tập hạnh không.

Lúc này, Phật nói tụng:

Người thích hạnh Sa Môn

Siêng bảo vệ chánh pháp

Ưa pháp, không rời thầy

Người như vậy khó có.

Học rộng, cầu Phật Đạo

Nghe nhiều, giáo hóa khắp

Thích cho, không tính toán

Do đó mau thành Phật.

Không nên gần, người nữ

Tổn đức, loạn thế gian

Làm các việc ham muốn

Không thể gần Bồ Tát.

Vì thế, người thanh cao

Thường phòng xa nữ sắc

Tịnh tu Bồ Tát đạo

Thương xót giúp quần sinh.

Lúc đó, Sai Ma Kiệt liền tháo châu báu chuỗi ngọc trên người ra, tung rải dâng lên Phật, oai thần của Phật làm cho châu báu ấy lơ lửng giữa hư không và hóa thành lọng báu, từ trong đó có năm trăm người biến hóa đi ra, cũng tháo châu báu trên thân ra, tung rải dâng lên Phật và cất tiếng thưa: Chúng con nguyện phát tâm Bồ Đề Vô Thượng.

Thấy các người biến hóa, Sai Ma Kiệt hớn hở vui mừng, thưa hỏi Phật: Những người biến hóa này từ Cõi Trời đến hay từ khắp bốn phương đến?

Phật bảo: Những người này không từ mười phương đến.

Cũng chẳng phải Trời, cũng chẳng phải Rồng, cũng chẳng phải thần, chẳng phai người.

Cũng chẳng phải địa, thủy, hỏa, phong, không.

Chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Cũng chẳng phải ý, chẳng phải tâm.

Chẳng phải làm.

Chẳng phải qua, chẳng phải lại.

Cũng chẳng phải đời này, chẳng phải đời sau.

Cũng chẳng phải sinh tử.

Những người này, gọi là người biến hóa, không từ đâu sinh đến, gọi là không, như bóng hiện trong gương, không lấy, không bỏ, không do đâu đến, không nắm bắt, không ngã, không nhân, không thọ mạng, không thức.

Người nam, người nữ nào hiểu biết các pháp như là mộng ảo, không có thức, nghe điều này mà tin và thực hành theo thì đó là con Phật.

Đẩy lùi bóng tối, đem lại ánh sáng cho thế gian, làm cho quân ma hàng phục, thành tựu đức lớn, đó là Sa Môn, Phạm Chí, là bậc Đại Bồ Tát thanh tịnh, là người không do đâu sinh, đã được truyền thọ, là Bậc Vô Thượng, không thoái chuyển. Tin ưa pháp này thì được như vậy.

Phật bảo Sai Ma Kiệt: Người nào nghe Kinh này mà kinh ngạc, chê bai cười cợt thì nên biết đó chẳng phải là Sa Môn, Phạm Chí. Đó là bọn ngoại đạo, buông thả, theo thầy xấu ác, không trở lại được đường lành, bị che mờ, mắt không còn sáng, giả xưng là Bồ Tát. Đó là bọn người lừa dối chuyên gây xung đột.

Bấy giờ, ma ác đến hỏi Phật: Có bao nhiêu người tin pháp này?

Phật bảo: Có bốn trăm ức trời, người trong Cõi Dục đều được pháp nhẫn vô sinh.

Khi ấy, Sai Ma Kiệt đạt được pháp nhẫn vô sinh, năm trăm Tỳ Kheo, năm trăm Thiện Nam và hai mươi lăm tín nữ đều được quả vị bất thoái chuyển. Hết tuổi thọ, sẽ được sinh lên Cõi Tây Phương thanh tịnh, có vô lượng Chư Phật, luôn bảo vệ vô số Pháp Phật, giáo hóa tất cả mọi người khiến họ đều được bất thoái chuyển. Như vậy, trải qua vô số kiếp ở cõi này rồi mới làm Phật.

Nghe Phật dạy, ma bước đi chầm chậm đến thưa Phật: Đời sau có thể không cần nói lại pháp này.

Hiền Giả A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì?

Phụng trì như thế nào?

Phật bảo Hiền Giả A Nan: Kinh này tên là Bồ Tát Sinh Địa do Sai Ma Kiệt hỏi. Hãy nên gìn giữ tu hành. Trăm kiếp thực hành, năm độ sẽ hoàn hảo, dù không có đại trí, không có Bồ Tát dẫn dắt, không bằng đọc tụng Kinh này và thuyết giảng khắp cho mọi người.

Khi ấy, Phật nói tụng:

Nếu đã tin học Kinh Sinh Địa

Công đức ấy thật không thể lường

Tự mình vượt khỏi ba đường ác

Chắc chắn thọ hưởng phước đời sau.

Đức Phật giảng nói kệ xong, Sai Ma Kiệt và bốn chúng đệ tử, các Trời, Rồng, Thần đều vui vẻ lãnh nhận.

***