Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Bản Duyên

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT BẢN DUYÊN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Chi Khiêm, Đời Ngô
 

PHẨM HAI

PHẨM NHẤT THIẾT THÍ
 

Tất cả các Bồ Tát

Vì lợi ích chúng sinh

Nên xả bỏ mạng mình

Xem như cỏ, phân uế.

Tôi từng nghe: Thời quá khứ có một vị Vua tên Nhất Thiết Thí.

Khi Vua mới sinh, hướng đến cha mẹ nói lời thế này: Con đối với tất cả vô lượng chúng sinh, còn có thể xả bỏ cả thân mạng quý trọng, huống chi là các vật châu báu khác của con. Vì vậy, cha mẹ rất quý trọng người con, đặt tên là Nhất Thiết Thí. Từ khi sinh ra, thân thể lớn dần theo hạnh bố thí, như mặt trăng đầu tháng lớn dần đến ngày mười lăm.

Sau đó không bao lâu, Phụ Vương băng hà, Hoàng Tử nối nghiệp lớn của cha, trị nước đúng theo pháp, giáo hóa, không ức hiếp muôn dân, giữ gìn tự thân không can dự việc người, không xâm lăng nước khác. Nếu họ đến quấy nhiễu thì trị phạt nhưng không bắt giữ.

Cứu giúp dân nghèo, trợ cấp tài sản. Cung kính các hàng Sa Môn, Bà La Môn… Thường bố thí thức ăn cho chúng sinh với tự tay thanh tịnh, chính miệng thường tuyên bố: Cho người này thức ăn, cho người này quần áo, cho người này tài sản vật báu, thương yêu người này, săn sóc người này. 

Bấy giờ, Bồ Tát thường làm việc bố thí hoàn toàn như vậy, khiến dân chúng nước láng giềng nghe công đức của Vua như thế nên thường quy phục, do đó đất nước Vua càng thêm đông đúc hầu như không còn chỗ trống.

Như nước lũ trên đỉnh núi chảy xuống làm đầy tràn khắp các chốn khe suối, hang hố vực sâu. Cũng như cứ nửa tháng, nước thủy triều dâng, dân chúng nước khác đến quy phục trong nước ấy đông đảo cũng như vậy. Nước khác bị giảm thiểu dần dân số, nên sinh phẫn nộ, cùng nhau bàn luận việc chinh phạt. Sau khi thương nghị, họ tập họp bốn loại binh cùng kéo đến nước của Bồ Tát.

Khi ấy, quan trấn thủ biên giới, từ xa về tâu Vua: Nước oán tặc bên cạnh đã xâm lăng giống như cuồng phong, gió đen, mưa dữ.

Nhà Vua bảo: Các Khanh không nên làm loạn tâm ta.

Vua nói kệ:

Nước bên sở dĩ

Đến đánh nước ta

Chính vì muốn dân

Kho tàng châu báu

Vui thay! Rất hay

Nên thí cho họ

Ta nên xả bỏ

Xuất gia học đạo

Có nhiều quốc vương

Vì năm dục nên

Xâm chiếm của dân

Chứa cất không chán

Nên biết Vua ấy

Sau khi qua đời

Bị đọa địa ngục

Súc sinh, ngạ quỷ.

Vì thế, nay ta không nên vì thân mình mà làm hại chúng sinh, đoạt tài sản của họ, vậy ta sẽ tự bỏ đi.

Các quan lớn cùng dân chúng cùng tâu: Cầu xin Đại Vương đừng bỏ đi, tự chúng tôi có thể chống cự kẻ địch này. Ngài hãy xem, hôm nay chúng tôi sẽ dùng năm loại binh, trang bị gươm giáo đầy đủ tất sẽ dẹp tan sạch hết lũ giặc, như gió bão thổi bay hết mây mưa.

Vua đáp: Than ôi! Này các Khanh, từ lâu ta đã biết các Khanh có lòng yêu mến, tôn trọng, hộ vệ ta, cũng biết các Khanh hùng dũng hơn người, vũ lược mưu kế bậc nhất, nhưng Vua bên địch gây ra việc này, đều không phải vì các Khanh mà chính là vì ta. Giả sử họ đến không làm hại các Khanh, thế sao lại sinh tâm ác như vậy. Ta từ lâu đã biết việc này, thân năm ấm là đích của các mũi tên.

Các Khanh biết không, ta từ lâu đã nói cho các Khanh biết chư Bồ Tát đối với chúng sinh luôn thương tưởng như đối với con một. Các Khanh không nên có tâm sân hại đối với chúng sinh khác vì biết chắc sân hại sẽ làm cho mình bị đọa địa ngục. Vậy nên các Khanh phải nhất tâm tu thiện. Trong khi Bồ Tát giảng dạy như vậy, thì quân giặc từ xa kéo đến, reo hò vang dậy.

Nhà Vua nghe tiếng reo, hỏi quần thần: Đây là tiếng gì?

Quần Thần đều buồn khổ, khóc than tức tưởi, tâu Vua: Giặc ác không bị ngăn, đã giết hại nhiều người, cũng như mưa đá dữ làm hại năm thứ lúa thóc, như lửa dữ thiêu rụi cỏ khô, như bão dữ xô ngã cây lớn, như sư tử sát hại các loài cầm thú, bọn oán tặc sát hại dân chúng cũng như vậy.

Bấy giờ, Quần Thần không nghe theo lời dạy của Vua, tự phân tán trang bị cho bốn loại binh để chiến đấu chống lại quân địch. Nhưng quân binh không có chủ tướng nên bị đánh lui, tan rã. Binh lính bị chết nhiều không kể xiết.

Khi ấy, Vua lên lầu nói: Nhân vì ác dục làm cho con người hành động ác.

Như thế thì các dục cũng như thây chết, nhà xí, phân uế, tại sao chỉ vì dục mà làm ác?

Người ngu vì tham đắm nơi quốc gia nên sinh tâm cạnh tranh, cũng như bầy chim tranh giành nhau miếng thịt. Những chúng sinh ấy luôn có kẻ oán ghét là già bệnh chết. Tại sao không tự mình quán sát kỹ về kẻ oán này, ngược lại chỉ đi cạnh tranh với kẻ khác.

Lúc Vua Nhất Thiết Thí suy nghĩ về việc này, thì Vua nước địch đã vào trong cung. Nhà Vua bèn đi theo ống nước chạy vào rừng sâu, đến khu rừng rậm thì thoát được giặc. Nơi ấy thanh tịnh, cây cối với các loại hoa quả nhiều vô số. Nước trong mát dịu ngọt, đủ tám mùi vị.

Các loại chim phù, chim nhạn, cùng các loài cầm thú cũng rất nhiều.

Nhà Vua thấy vậy nên rất vui mừng, nói: Nay, ta đã thật thoát khỏi ngôi nhà lỗi lầm, khổ não. Vô số chúng sinh thường bị bao mối già, bệnh, chết khống chế làm cho khổ não.

Nay ta đã tới được nơi chốn thanh tịnh, an lạc này thật khoan khoái không thể tả hết. Rừng này là trú xứ của Bồ Tát tu tập từ bi, cũng là thành trì vững chắc cho người phá trừ bốn loại ma.

Ta đã được thân tâm thanh tịnh, tẩy sạch các cáu bẩn, cùng làm bạn với những con nai, thân tâm càng thêm an lạc, thọ nhận mọi khoan khoái cùng cực.

Khi Vua oán địch chiếm được nước kia rồi, liền rao lệnh tìm kiếm Vua cũ. Người nào tìm được Vua Nhất Thiết Thí, hoặc giết hoặc trói đem về đây, thì sẽ trọng thưởng cung cấp tất cả mọi thứ vật dụng tùy theo yêu cầu. Bởi vì trước đây Vua ấy thường tự xưng tụng mình tu tập Chánh Pháp, chê bai chúng là bạo ngược làm ác.

Thế nên, nay Vua mới này muốn gặp ông ta để chỉ cho thấy kết quả của việc tu thiện kia.

Tại địa phương xa khác, có một Bà La Môn nghèo cùng, tiều tụy, xin ăn để sống, qua ngày gặp phải việc quan không nơi nhờ cậy, nghe tên họ Vua thích làm việc bố thí, liền từ nước mình đi về nước của Vua để cầu xin, giữa đường đói khát, mệt nhọc, tạm nghỉ trong rừng, tự than thở:

Nơi này tịch tĩnh là trú xứ của Thánh Nhân, hoặc là nơi ở của Bậc Thần Tiên ly dục, của các hạng người cầu giải thoát, đoạn tuyệt ăn uống, không giữ nô tỳ, không đi xe ngựa, ít muốn biết đủ, ăn trái khô, củ rễ, dược thảo. Chỗ ở của người có tâm đại bi cũng là nơi tất cả các loài chim bay thú chạy không hề sợ hãi.

Tự tại Thiên Vương, vì muôn khiến cho chúng sinh thấy rõ gia đình là chốn lỗi lầm, khổ hoạn nên hóa ra nơi này. Vua Nhất Thiết Thí nghe nói vậy, rất vui mừng, liền đi đến gặp vị kia, chào hỏi, mời ghé chỗ mình. Sau khi ông Bà La Môn an tọa, Vua Nhất Thiết Thí bèn đem các loại trái cây ngon ngọt mời ông ta.

Ăn xong, nhà Vua hỏi: Đại Bà La Môn, nơi này đáng sợ, không có dân chúng, ở đây chỉ có người tu đạo nhàn tịnh sống riêng lẻ, vì sao ông lại tìm tới?

Bà La Môn nói: Người không nên hỏi tôi về việc này. Người là bậc phước đức thanh tịnh, xa lìa sự trói buộc của lao ngục gia đình, vì sao hỏi tôi về sự việc ấy.

Người không nên nghe lời nói ác trược: Nếu ai xâm phạm ta, ta sẽ xâm phạm lại. Nếu ai đoạt của ta, ta sẽ đoạt lại của họ, làm cho tài sản tiêu tán, thân tộc chia lìa, vì sống tại gia nên phải chấp nhận như vậy. Đại Đức, nay Ngài đã đoạn trừ tất cả mọi thứ ràng buộc, an trú trong núi rừng, như loài voi mạnh quý giá, luôn tự tại vô ngại.

Bồ Tát Nhất Thiết Thí nói: Người nói ra những lời thanh tịnh, dịu dàng, vì sao không cùng ta trú ở nơi này?

Bà La Môn đáp: Nếu muốn nghe, tôi sẽ trình bày rõ cho Ngài. Quê hương của tôi cách đây rất xa, bạc phước nên gặp phải Vua bạo ngược, cũng như sư tử ở giữa bầy nai, không bao giờ có một chút tâm niệm từ thiện.

Vua nước tôi bạo ngược cũng giống như loài thú dữ ấy, không có tâm từ mẫn với muôn dân, có tội, không tội chỉ tiền bạc là xong. Tôi từ khi sinh ra đến nay luôn đề phòng cẩn thận, chưa từng phạm một chút nhỏ luật lệ của Vua.

Vô cớ Vua bắt cả gia đình tôi giam giữ, bắt tôi phải nộp năm mươi tiền vàng, nộp đủ thì sẽ tha tội gia đình tôi, nếu không thì không thả ra, phải bị nhốt mãi nơi chốn tối tăm và còn bị đánh đập.

Sắp đến kỳ hạn phải nộp tiền vàng, nhưng gia cảnh nghèo cùng không sao có đủ. Tôi nghe nước này có Vua Nhất Thiết Thí, Ưa làm việc bố thí, giúp đỡ người nghèo. Sự bố thí bất tuyệt, như cây trong mùa xuân hạ, hoa quả liên tục, như nước trong mát nơi đồng rộng ruộng vắng, người khát qua đó tùy ý uống, như hội lớn thực hiện việc bố thí không ai ngăn chặn.

Nay tôi lược nói, giả sử có người có ngàn cái đầu, mỗi đầu có ngàn miệng, miệng có ngàn lưỡi, mỗi lưỡi giải ngàn nghĩa, muôn tán thán đủ công đức của vị Vua này cũng không thể hết được. Vua ấy đã thành tựu danh đức như vậy.

Nay gia đình tôi gặp phải Vua bạo ác, vô cớ mắc phải tội, lại không biết dựa vào đâu, thế nên tôi muốn đến chỗ nhà Vua kia trình bày cầu xin theo chỗ mình cần.

Nhưng trong tâm tôi thường suy nghĩ: Bao giờ thì mới đến được nơi tùy ý cầu xin! Nếu vị Đại Vương kia biết được hoàn cảnh của tôi, thương xót, cung cấp ít nhiều, thì gia đình tôi có thể nhà đấy mà bảo toàn sinh mạng. Nếu xin không đủ số, tôi sẽ không sống nổi. Khi Bồ Tát nghe việc này, tâm bị xúc động mạnh nên ngất xỉu, ngã lăn ra đất, cũng như gió bão dữ làm ngã cây đại thọ.

Bà La Môn liền lấy nước rưới lên mình nhà Vua, khiến cho tỉnh lại và hỏi: Đại Tiên, Ngài nghe gia đình tôi bị khổ não như thế nên tâm ý Ngài sầu muộn phải không?

Ở đây thanh tịnh làm Ngài yêu thích, thường sinh tâm bi.

Nay tôi gặp phải hoàn cảnh như vậy còn không sầu khổ, Ngài vì sao mà quá khổ não đến thế?

Vua đáp: Ông có ý muốn gặp được Vua kia. Ông thật không may vì người chánh trực đã không còn. Ông có đến nơi chắc chắn cũng không gặp, nên tôi buồn khổ.

Bà La Môn hỏi: Nhà Vua ấy bỏ đi đâu?

Vua Nhất Thiết Thí đáp: Có Vua nước thù địch đến chiếm đoạt vương vị của Vua ấy. Hiện nay Vua ấy chạy trốn trong rừng vắng, chỉ làm bạn với cầm thú. Bà La Môn nghe nói vậy liền ngất xỉu.

Vua Nhất Thiết Thí bèn rưới nước lạnh, làm cho ông ta tỉnh lại, rồi an ủi: Ông hãy ngồi dậy, đừng sầu khổ nữa.

Bà La Môn nói: Hôm nay chắc tôi phải chết!

Vì sao?

Là vì điều mong muốn của tôi đã tan nát, tôi làm sao gượng dậy nổi, chắc chắn là không sao sống được.

Bấy giờ, Vua Nhất Thiết Thí phát sinh tâm từ bi, suy nghĩ: Thật thương cho bậc Đạo Sĩ này, vì ý nguyện không được kết quả. Như hàng ngạ quỷ từ xa mong có nước trong, đến nơi thì lại không uống được, tâm quá sầu khổ nên ngã lăn ra đất.

Bà La Môn này cũng như vậy!

Nhà Vua bèn gọi: Bà La Môn ơi!

Ông hãy ngồi dậy!

Ông hãy ngồi dậy!

Vua Nhất Thiết Thí chính là ta.

Trước đây ông muốn thấy, nay đã được gặp, vì sao còn sầu khổ?

Bà La Môn hỏi Vua: Dùng lời thiện để an ủi tôi, vậy Ngài có tiền của không?

Vua đáp: Ta không có tiền của nhưng có cách làm cho ông được nhiều châu báu.

Bà La Môn nói: Cách ấy là gì?

Vua đáp: Trước đây ta nghe Vua oan gia của ông đang ở nước ta và tuyên bố giữa mọi người: Ai bắt được Vua Nhất Thiết Thí, giết chết hoặc giải về đây, thì sẽ được ta trọng thưởng theo yêu cầu. Ta từ xưa đến nay chưa bao giờ dạy người khác làm việc ác, thế nên không bảo ông phải lấy đầu ta, chỉ nên trói ta giải đến Vua kia.

Vì sao?

Vì ta ngoài thân này ra, thì chẳng có tiền của gì cả. Nhưng thân này của ta đã được tự tại, may mắn đem đổi lấy tài sản vật dụng để cứu giúp ông.

Lành thay! Lành thay! Này Bà La Môn, nay ta có được lợi ích là dùng thân vô thường này đổi lấy thân kiên cố. Đạo Sĩ hãy xem, giả sử thân ta bị chết ở đây, thì bỏ thây nơi hoang vắng thì khác nào cây cỏ.

Tuy có cầm thú đến ăn, nhưng nào có lợi gì. Nay dùng thân tro đất này đổi lấy vàng ròng vật báu, ta vì ý gì mà còn luyến tiếc nó.

Khi Ông Bà La Môn nghe Vua nói thế thì buồn khóc, thưa: Sao có thể có lý như thế được.

Vì sao?

Ngài hiện nay là bậc Vô Thượng Điều Ngự, cha mẹ của chúng sinh, giỏi làm việc hộ trì, là nơi chốn quy ngưỡng lớn lao, diệt trừ tất cả sự sợ hãi của vô lượng chúng sinh, hành động quảng đại, không mong báo đáp, thường thương xót muôn loài, là ánh lửa sáng lớn soi đường đối với bao cảnh đời tối tăm.

Tôi làm sao lại phá diệt chánh pháp, trói Ngài đem đến giao cho Vua thù oán được?

Giả sử đem Ngài đến giao Vua thù oán mà được vàng bạc châu báu vô kể thì tôi với tâm địa nào để đưa tay ra nhận?

Giả như nhận lấy, thì tay ắt sẽ bị gãy xuống đất. Ví như người con trai vì để nuôi sống lấy thân mình mà phải ăn thịt cha mẹ, người này tuy được bảo tồn tánh mạng, nhưng khác nào kẻ đã chết rồi. Tôi cũng như vậy, nếu trói Vua đem đến cho kẻ ác kia, tuy được nhiều tiền để chuộc gia đình, nhưng là việc tôi không thể ham chuộng.

Nhà Vua đáp: Lời nói như vậy, sao gọi là tính toán chu đáo?

Nếu ông thương xót ta, thì ta sẽ tự trói mình đi theo sau ông đến chỗ kẻ oán thù kia. Ông không bị tội lỗi gì, còn ta thì lại được phúc.

Bà La Môn nói: Kính vâng lệnh Vua, xin làm theo ý Ngài. Nói xong những lời ấy, nhà Vua bèn tự trói cùng với ông Bà La Môn đưa nhau đến thành.

Cựu thần của nhà Vua cùng dân chúng khi trông thấy Vua, đều tỏ ra kinh ngạc hết sức: Than ôi! Bà La Môn!

Ngươi chính là loài La Sát chứ chẳng phải Bà La Môn!

Ngươi đích thực là La Sát, chẳng phải Bà La Môn!

Ngươi vốn là quỷ thần bạo ác, trá ngụy hình tướng Bà La Môn, không có tâm từ bi, chính là tử quỷ thường mong giết hại người. Nay ngươi làm cho thân Vua bị tiêu diệt, cũng như nguyệt thực, bảy mặt trời cùng chiếu làm cho biển lớn khô cạn. Đèn sáng của pháp vô thượng hôm nay bị tất hết.

Này kẻ Chiên Đà La, tại sao tay ngươi không bị rụng xuống đất. Vì sao thân ngươi không bị chôn sâu vào lòng đất.

Như Vua sư tử, sau khi chết rồi, ai không hại được. Vua Nhất Thiết Thí này từ lâu đã rời bỏ ngôi vị, đất nước. Vợ con, kho tàng châu báu cùng tất cả mọi sự tranh giành, lui vào rừng sâu, tu hạnh tịch tĩnh, đối với ngươi có thù oán gì mà nỡ đưa Ngài lại đây.

Dân cả thành đồng thanh nguyện: Chư Đại Tiên Thánh, Tứ Đại Thiên Vương hộ thế! Xin dùng uy thần hộ trì nhà Vua được bảo toàn mạng sống.

Lúc ấy, vị Bà La Môn nghe như vậy, rất kinh sợ, vội vàng dẫn Vua Nhất Thiết Thí vào gặp Vua kia, tâu lên: Đại Vương biết cho, thần đã bắt được Vua Nhất Thiết Thí.

Vua thù oán thấy vậy liền suy nghĩ: Vị Vua này đang độ tráng niên, thân tướng đẹp đẽ, hình dung tuấn tú, sức lực khó khuất phục.

Còn ông Bà La Môn này thì tuổi già sức yếu, hình dung khô héo, diện mạo xấu xí, không sức lực mưu kế, vậy thì làm sao bắt được Vua ấy đem đến đây?

Hay ông ta là Phạm Vương, Tự tại Thiên Vương, Na La Diên Vương, Thích Đề Hoàn Nhân, Tứ Đại Thiên Vương?

Vua thù oán hỏi: Ai trói cho ngươi?

Bà La Môn tâu: Chính thần trói ông ta.

Vua thù oán liền mắng: Hãy đi xa đi, kẻ ngu si!

Vua lại hỏi: Hay là ngươi đã dùng sức của chú thuật để trói lại phải không?

Vì thân ngươi ốm yếu, còn thân Vua kia thì đoan nghiêm, cũng như Đế Thích, làm sao ngươi trói được?

Giả sử có người nói là có thể thổi núi Tu Di tan ra như bột, thì có thể tin không?

Oán Vương bảo các Đại Thần: Các ngươi nên biết, đây là việc lạ, là trong mộng hay là huyễn hóa?

Chẳng lẽ tâm ta mê muội nên nhìn thấy sai lầm hay sao?

Con khỉ già ốm này làm sao trói được thân Đế Thích?

Các quan nên biết, làm sao dùng tơ trong ngó sen để treo núi Tu Di?

Làm sao với thân con thỏ mà vượt qua biển lớn?

Làm sao với vòi con muỗi lại châm tới tận đáy biển?

Khi Bà La Môn nghe oán vương nói vậy, liền nói kệ:

Nay Đại Vương nên biết

Tôi thật không thể trói

Chính Vua này từ bi

Vì tôi nên tự đến.

Như dùng lưới trói gió

Việc này thật là khó

Chính như Thiên Đế Thích

Cũng không thể làm được.

Khi ấy, Oán Vương hướng về Vua Nhất Thiết Thí nói: Ngươi vì sợ ta nên trốn vào chốn núi sâu, khe suối, rừng rậm đồng vắng, chỉ biết vui với cỏ cây, cầm thú, ít muốn, biết đủ, uống nước suối, ăn trái cây, lấy cỏ làm nệm, không tranh với ta. Nhưng tâm thù oán của ta thì chưa thể tiêu trừ được.

Ta lại có quyền sát hại ngươi, vì sao ngươi lại tìm đến đây?

Vua Nhất Thiết Thí thản nhiên mỉm cười, không lộ chút sợ hãi, thân tâm ung dung như sư tử Vương, lên tiếng: Ngươi không biết hay sao, ta tên là Vua Nhất Thiết Thí.

Ta muốn thành tựu thệ nguyện của mình, nay đến đây là vì ba việc: 

Một, vì ông Bà La Môn này dốc cầu xin tiền tài.

Hai, trước đây ngươi đã công bố ai bắt được ta đem tới cung Vua thì sẽ trọng thưởng cho họ.

Ba, trước đây ta có thệ nguyện là sẽ bố thí tất cả, thế nên ta tìm đến là muôn xả bỏ thân mạng.

Nay người hãy ý thức rằng, nếu thân ta bị chết, chôn vào đất, nào có ích gì. Sở dĩ trước đây ta chạy vào rừng núi, không phải vì sợ hãi, mà chỉ vì yêu thương muốn hộ trì tánh mạng cho các chúng sinh. 

Nay ngươi có quyền lực mà chưa diệt được tâm thù oán, nên ta đến đây tùy ý ngươi chém giết để hết tâm oán hận, được an ổn. Vậy nay người hãy mau thực hiện đi.

Vua Nhất Thiết Thí nói kệ:

Với oán sình sân hận

Tự khô héo tâm mình

Như đóm lửa dưới tro

Có thể đốt vạn vật.

Nhân vì tâm phẫn nộ

Khi chết đọa địa ngục

Như bị mũi tên độc

Trúng thân chắc phải chết.

Ai sân hận kẻ thù

Thì tâm không yên tĩnh

Như người bị đau mắt

Không thấy đúng sắc màu

Thân này bằng máu thịt

Xương, tủy, mỡ và não

Phẩn uế và đờm dãi

Da mỏng bọc bên ngoài,

Thân này như nhà xí

Không chủ, không có ngã

Có oán thù gì Vua

Mà phát sinh phẫn nộ.

Giặc sinh lão bệnh tử

Thường xâm chiếm thân Vua

Tại sao đối với chúng

Ngược lại tưởng bạn thân?

Thân ta là bốn đại

Thân Vua cũng như vậy

Ai thấy mà nổi sân

Là tự sân với mình.

Thế nên Đại Vương không nên nổi sân hận! Nếu ngươi vẫn còn sân hận thì với quyền lực hiện nay, hãy tùy ý chém giết ta cho mau, hãy thưởng cho người đầu tiên tìm kiếm ta. Ta nhất quyết bỏ thân mạng không chút luyến tiếc. Với nhân duyên này, ta nguyện cho tất cả chúng sinh có thể thực hiện sự bố thí tất cả và cũng đạt được việc xả bỏ mọi thứ tiếng tăm.

Khi Oán Vương nghe nói như vậy, từ ngự tọa đứng dậy, chắp tay cung kính lạy Vua Nhất Thiết Thí và thưa: Cầu xin Đại Vương ngồi trở lại tòa của mình. Ngài chính là bậc Pháp Vương, là bậc Chúa giáo hóa chân chánh.

Tôi chỉ là kẻ La Sát bạo ác. Ngài là ngọn đèn sáng trong đời, là cha mẹ của thế gian. Tôi chỉ là kẻ giặc lớn bạo ác ở đời, chuyên làm pháp ác, cướp đoạt tài sản người khác. Ngài thật xứng hợp với pháp, là gương sáng của chánh pháp.

Tôi không xứng với pháp vì thường dối trá người khác. Cũng như người mù không thấy vết nhơ của mình, chúng tôi tội lỗi sâu nặng cũng giống như thế. Thân này từ lâu đáng bị vùi vào đất, sở dĩ còn sống đến ngày hôm nay, thật ra là nhờ Tôn Giả đã hộ trì cho. Nay, tôi xin bỏ đất nước này và dâng thân tôi lên cho Ngài.

Vua Nhất Thiết Thí nhân đấy bèn giảng giải giáo pháp cho Oán Vương nghe, khiến cho nhà Vua an trú trong giáo pháp, đem nhiều của báu ban cho người Bà La Môn giúp ông ấy trở về quê cũ. Khi Đại Bồ Tát tu tập hạnh bố thí Ba La Mật, còn xả bỏ cả thân mạng quý trọng như vậy, huống chi đối với tài sản bên ngoài.

***