Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Bất Tư Nghì Quang Sở Thuyết

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT BẤT TƯ NGHÌ

QUANG SỞ THUYẾT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Cưu Ma La Thập, Đời Diêu Tần
 

PHẦN HAI
 

Này Kiều Thi Ca! Nên biết pháp phục của Bồ Tát là như vậy, dùng pháp trang nghiêm, sống luôn biết hổ thẹn.

Thích Đề Hoàn Nhân đối với anh nhi tăng thêm tâm cung kính, hết sức tôn trọng và bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn thương xót chúng con khiến anh nhi nhận lấy y này.

Đức Thế Tôn bèn bảo Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang nên nhận y của Đế Thích. Đức Thế Tôn dùng tay phải lấy Thiên Y trao cho anh nhi. Anh nhi đầu gối bên phải quỳ sát đất, dùng tay phải nhận lấy y ấy rồi mặc vào.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đem Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang đến đại thành Xá Vệ thứ lớp khất thực.

Khi ấy, đại chúng nam nữ lớn nhỏ, Trưởng Giả, Cư Sĩ, Sát Lợi, Bà La Môn, Vua và các phụ chánh đại thần, thấy Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang đều sinh tâm hy hữu, họ cũng vì để diện kiến Đức Phật, kính lễ cúng dường nên đều tụ hội.

Đức Thế Tôn tuần tự khất thực, đến nhà người mẹ của Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang.

Bồ Tát bất tư nghì quang liền vào nhà mình đến trước chỗ mẹ, hướng về sinh mẫu nói kệ:

Mẹ không có lỗi lầm

Phải nên tự vui mừng

Con xưa tạo nghiệp ác

Nay sinh ở bụng mẹ.

Mẹ là ruộng phước con

Xót thương ân sinh thành

Mẹ chớ sinh xấu hổ

Mau đến chỗ Thế Tôn.

Mẹ nay được lợi lớn

Vì con mà mang thai

Công đức mẹ như thế

Đến hỏi Đấng Đạo Sư.

Khi ấy, Bồ Tát bất tư nghì quang nói với Thích Đề Hoàn Nhân: Này Kiều Thi Ca! Cho ta xin những thứ cần dùng như hương hoa, y phục. Ta muốn dâng lên mẹ để mẹ ta đem các vật này cúng dường Đức Phật, nên phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.

Thích Đề Hoàn Nhân đem hoa Trời Mạn Đà La, hương Cõi Trời và các y phục của Chư Thiên trao cho Bồ Tát.

Bồ Tát bất tư nghì quang lại hướng đến mẹ mình, nói kệ:

Mẹ nhận hoa đẹp này

Hoa Trời Mạn Đà La

Hương diệu và y phục

Dâng lên cúng dường Phật.

Vật báu và thức ăn

Khó báo ân cha mẹ

Hướng dẫn vào chánh pháp

Là cúng dường song thân.

Cúng dường Thế Tôn rồi

Phát tâm đạo vô thượng

Con nhiều kiếp thường khuyên

Lúc nào cũng siêng năng.

Người mẹ sinh tâm vui

Hoàn toàn không xấu hổ

Đi đến chỗ Thế Tôn

Đảnh lễ rồi đứng trước.

Tung hoa lên Như Lai

Dâng hoa và y phục

Trồng căn lành nơi Phật

Và phát tâm bồ đề.

Vững trụ tâm bồ đề

Thưa hỏi Thích Sư Tử

Mang thai chúng sinh tịnh

Xin nói phước báo này.

Nay con nhờ nghiệp thiện

Không sinh các nẻo ác

Cúng vô số Phật rồi

Sau sẽ được thành Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở đại thành Xá Vệ tuần tự khất thực rồi cùng Bồ Tát bất tư nghì quang và đại chúng ra khỏi đại thành hướng đến Tinh Xá Cấp cô cùng thuộc rừng Kỳ Đà. Đức Thế Tôn thọ trai xong, rửa tay, súc miệng rồi đến tòa ngồi diễn nói chánh pháp.

Lúc đó, Vua Ba Tư Nặc nước Kiều Tát La nghe Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang có đại thần thông không thể nghĩ bàn, nên ra lệnh chỉnh đốn bốn loại binh chúng sửa soạn xa giá, rồi đi đến Tinh Xá Cấp cô cùng thuộc rừng Kỳ Đà. Vua tới chỗ Đức Thế Tôn, cung kính đảnh lễ dưới chân và lui ra ngồi một bên.

Vua Ba Tư Nặc bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang đang ở chỗ nào?

Nghe nói Bồ Tát có sức thần thông không thể nghĩ bàn?

Đức Phật liền chỉ Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang cho Vua Ba Tư Nặc.

Vua vừa trông thấy Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang hình tướng đoan nghiêm thù thắng, tự tại không chút sợ hãi, tự trang nghiêm đầy đủ bằng giới, định, tuệ, liền nghĩ: Bồ Tát đã gieo trong căn lành gì?

Tu tập phước đức gì mà có thân tướng vi diệu như vậy?

Lúc đó, anh nhi bất tư nghì quang vâng theo thần lực của Đức Phật, biết ý nghĩ của Vua nước Kiều Tát La nên hướng đến Vua, nói kệ:

Thường tu tâm từ tịnh chúng sinh

Tu chánh niệm không thô uế ác

Giữ thân khẩu ý, phạm hạnh tịnh

Mới có được thân tịnh diệu này.

Xa lìa người ác, không tự tạo

Tăng trưởng tu tập thiện vô lượng

Lìa bỏ điều ác, không tranh cãi

Mới có được thân tịnh diệu này.

Cung kính Phật, Pháp và Thánh Tăng

Thường luôn phụng thí dốc cúng dường

Không mắng nhiếc người, không bức hại

Mới có được thân tịnh diệu này.

Mạ lỵ, trách móc và hủy báng

Đối với người khác không như thế

Khen tốt, khen đẹp, không nói ác

Mới có được thân tịnh diệu này.

Tham keo ganh ghét và kiêu mạn

Xét kỹ hạnh mình không chê người

Mới có được thân tịnh diệu này.

Bấy giờ, Vua Ba Tư Nặc bạch Thế Tôn: Bồ Tát anh nhi bất tư nghì quang này thành tựu pháp thù thắng vi diệu như thế, do nghiệp chướng gì mà thọ sinh vào bụng của dâm nữ rồi bị bỏ nơi chỗ trống?

Phật bảo Đại Vương: Nơi thuở quá khứ hơn chín mươi mốt kiếp về trước, thời đó có Đức Phật hiệu là Tỳ Bà Thi gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời.

Đại Vương nên biết! Lúc ấy, trong giáo pháp của Đức Tỳ Bà Thi Như Lai có hai vị Bồ Tát: Một tên là Hiền Thiên, hai tên là Nhiêu Tài.

Bồ Tát Hiền Thiên đối nơi đạo vô thượng đạt được quả vị không thoái chuyển, được Đà La Ni và biện tài vô ngại, được nhẫn vô sinh, có phước đức, uy lực, ít ham muốn, biết đủ, thường ưa chỗ vắng vẻ, đạt được thần thông. Còn Bồ Tát Nhiêu Tài thì tu học hạnh Đầu Đà, hầu cận Bồ Tát Hiền Thiên, thường lui tới các xóm làng, thành ấp hành xử nhiều việc.

Bồ Tát Hiền Thiên nhiều lần quở trách: Tại sao ông hay gây ra nhiều việc như thế mà không tự đoạn trừ?

Luôn được quở trách, dạy bảo như vậy nhưng Nhiêu Tài lại sinh tâm giận dữ không vui. Vì quá sân hận nên Nhiêu Tài đã tìm cách vu cáo, mắng nhiếc, nhục mạ Hiền Thiên. Khi ấy, Bồ Tát Hiền Thiên liền đuổi Nhiêu Tài ra khỏi trụ xứ khiến Nhiêu Tài càng thêm giận dữ, thô ác, đê tiện.

Do nhân duyên của hành nghiệp bất thiện ấy, nên sau khi mạng chung thọ sinh vào thai của dâm nữ, nhờ sự hộ trì của Bồ Tát Hiền Thiên nên khong bị đọa vào địa ngục. Dâm nữ sinh ra thường đem vất bỏ, bị các thứ cáo, chó sói ăn thịt.

Này Đại Vương! Do duyên ấy nên trong chín mươi mốt kiếp luôn bị chết như vậy, đời đời thường bị vất bỏ. Kiếp này cũng vậy, làm con của dâm nữ bị đem bỏ nơi chỗ trống cho cáo, chó sói ăn thịt.

Này Đại Vương! Chớ nên nghi ngờ. Nhiêu Tài thời ấy luôn sân hận mắng nhiếc nay chính là Bồ Tát bất tư nghì quang. Hành của nghiệp ác đã hết, do sức của nghiệp thiện nên tâm kết sử được thanh tịnh, ý vui thích với Đức Phật, đường ác của người này đều đã chấm dứt.

Này Đại Vương! Bồ Tát bất tư nghì quang ấy đã từng gặp sáu mươi bốn ức Đức Phật, kính lễ cúng dường tôn trọng tan thán, ở chỗ các Đức Phật này thường tu phạm hạnh, siêng năng tinh tấn cầu pháp, nên sức thiện gốc đó mới được như thế và đạt sức thần thông.

Này Đại Vương! Nghiệp trắng đen như vậy trọn không hề mất, thế nên người trí khéo giữ gìn thân, khẩu và ý nghiệp, thà bỏ thân mạng chứ không nên tạo nghiệp ác.

Vua Ba Tư Nặc bạch: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát Hiền Thiên kia đã đạt được Nhất thiết trí hay là còn tu tập hạnh Bồ Tát?

Phật bảo nhà Vua: Đại Vương! Bồ Tát Hiền Thiên kia nay ở Quốc Độ của Đức Phật A Súc, tu hạnh Bồ Tát, hiệu là Đức Tạng.

Khi ấy, Vua Ba Tư Nặc bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ tu tập cần phải luôn thân cận với tri thức thiện.

Vì sao phải gần gũi bậc thiện tri thức?

Bạch Thế Tôn! Vì gần gũi bậc thiện tri thức, cung kính vây quanh, thường nghe pháp thiện, nghe pháp thiện rồi thì được tâm thiện. Đã có tâm thiện, nên tu tập hạnh thiện, làm các nghiệp thiện, hướng đến chỗ thiện được gặp tri thức thiện.

Vì được bạn thiện, nên không làm điều ác, tu tập điều thiện. Tu tập điều thiện rồi thì không não hại mình, không não hại người. Nếu có Bồ Tát tự giữ mình, hộ trì người, thì có thể chứng đắc đạo Bồ Đề. Nếu đã an trụ vào đạo, có uy lực lớn tất tạo được nhiều lợi ích.

Phật nói: Lành thay! Đại Vương đã nói rất đúng! Này Đại Vương! Bồ Tát gần gũi nơi tri thức thiện tức đầy đủ tất cả công đức nơi pháp thiện.

Bồ Tát bất tư nghì quang thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát thành tựu bao nhiêu pháp, thì mau đạt được đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, được pháp nhẫn thanh tịnh?

Phật bảo anh nhi: Bồ Tát thành tựu bốn pháp thì mau đạt được đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác và pháp nhẫn thanh tịnh.

Những gì là bốn?

1. Hiểu biết về nhân duyên nơi nhẫn.

2. Xa lìa chấp đoạn, thường.

3. Hiểu rõ về vô ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng.

4. Hiểu rõ về không tịch, tu hành pháp không.

Đó là bốn pháp.

Lại có bốn pháp.

Những gì là bốn?

1. Quá khứ vắng lặng.

2. Vị lai không nhận biết.

3. Hiện tại không trụ.

4. Ba đời bình đẳng.

Lại có bốn pháp:

1. Tự thanh tịnh.

2. Chúng sinh thanh tịnh.

3. Pháp thanh tịnh.

4. Thiền định thanh tịnh.

Lại có bốn pháp:

1. Thân tịch tĩnh.

2. Tâm tịch tĩnh.

3. Đạo tịch tĩnh.

4. Pháp tịch tĩnh.

Lại có bốn pháp:

1. Dùng pháp để quán Phật, không dùng sắc.

2. Dùng xa lìa để quán Pháp, không dùng ngã.

3. Dùng vô vi để quán Tăng, không dùng số đông.

4. Tuệ nhãn luôn được thanh tịnh.

Lại có bốn pháp:

1. Đầy đủ các pháp Ba la mật.

2. Không bỏ bốn nhiếp pháp.

3. Khéo biết về phương tiện.

4. Nói chúng sinh không mà hành đại bi.

Này anh nhi! Đó là Bồ Tát thành tựu bốn pháp nên mau đạt được đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác và pháp nhẫn thâm diệu.

Khi giảng nói pháp ấy, Bồ Tát bất tư nghì quang đạt được pháp nhẫn vô sinh, vui mừng hết mực nên bay lên hư không, cao bảy cây Đa La. Ngay lúc ấy, tam thiên đại thiên Thế Giới chấn động đủ sáu cách, ánh sáng chiếu khắp, Trời tuôn mưa hoa, trăm ngàn kỹ nhạc không tấu mà tự vang lên.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của Bồ Tát bất tư nghì quang nên mỉm cười, từ nơi diện môn của Đức Thế Tôn phát ra hào quang đủ các màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, pha lê.

Ánh sáng ấy tỏa chiếu khắp vô lượng, vô biên Thế Giới, che khuất cung điện của ma và ánh sáng của Mặt Trời, Mặt Trăng, đoạn trừ nỗi khổ nơi cõi địa ngục, ngạ quỷ, lên đến Cõi Phạm Thế và trở lại nhiễu quanh chỗ Phật ba vòng, rồi nhập vào tướng đảnh.

Lúc đó, Tôn Giả A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng đến Phật, nói kệ thưa:

Sắc tướng rất vi diệu

Vẻ đẹp trang nghiêm thân

Viên quang khéo đáp hỏi

Vì nhân duyên gì cười?

Giữ giới, hành không sợ

Định tuệ thắng, trang nghiêm

Quả giải thoát hiện vững

Vì nhân duyên gì cười?

Nhẫn lực và mười lực

Nhẫn dũng tiến, khó động

Vui thấy hiện bốn đế

Vì nhân duyên gì cười?

Thân Kim Cang bền chắc

Lực tận Na La Diên

Ý vui tiếng phạm âm

Xin diễn nói nghĩa cười.

Trời Phạm Thiên ở trên

Không thấy đảnh Như Lai

Tuần tự chắp tay kính

Vì nhân duyên gì cười?

Cội Bồ Đề hàng ma

Được đạo tịnh vô cấu

Biết hạnh các chúng sinh

Xin nói duyên gì cười?

Chuyển pháp luân vô thượng

Nói động địa vô thường

Thâu phục Trời, Người, Rồng

Thế Tôn vì sao cười?

Chiếu sáng trừ tối tăm

Nhãn thanh tịnh thấy khắp

Công đức như hư không.

Vì nhân duyên gì cười?

Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan: Ông nay thấy Bồ Tát bất tư nghì quang này đang trụ nơi hư không cách đất bảy cây Đa La chăng?

Tôn Giả A Nan thưa: Con đã thấy, bạch Thế Tôn!

Phật bảo: Này A Nan! Bồ Tát bất tư nghì quang này trải qua trăm ngàn A tăng kỳ kiếp sẽ được thành Phật cũng hiệu là bất tư nghì quang, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời, cõi nước tên là Tịnh khiết, kiếp ấy gọi là Vô cữu.

Này A Nan! Cõi Phật Tịnh khiết này hết sức thanh tịnh, giống như các cung điện nơi Cõi Trời Tha Hóa Tự Tại. Thọ mạng của Đức Phật ấy là hai mươi trung kiếp, chúng đại Thanh văn gồm tám vạn, chư Bồ Tát Tăng là ba vạn hai ngàn.

Này A Nan! Do nhân duyên gì kiếp đó có tên là Vô cữu?

Này A Nan! Thuở ấy, trong hàng trăm ngàn kiếp không có Phật ra đời, Đức Phật bất tư nghì quang này ở trong kiếp kia thành Phật đầu tiên.

Nên Chư Thiên Trời Tịnh Cư vui mừng tán thán: Kiếp này Vô Cữu không có lỗi lầm! Kiếp này Vô Cữu! Vì có Đức Như Lai xuất hiện ở đời. Do vậy gọi kiếp này là Vô Cữu.

Khi giảng nói về Bồ Tát bất tư nghì quang có ba vạn hai ngàn chúng sinh phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, sáu vạn Bồ Tát đạt được pháp nhẫn vô sinh, năm trăm Tỳ Kheo đoạn trừ hết kết lậu, tâm được tự tại, thành A La Hán.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Ông nên thọ trì, đọc tụng Kinh này, ở trong đại chúng diễn nói rộng khắp khiến chánh pháp của ta trụ ở đời lâu dài tạo được nhiều lợi ích cho Bồ Tát nơi đời vị lai.

Tôn Giả A Nan thưa: Bạch Thế Tôn! Con xin thọ trì đúng như lời Phật dạy.

Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì, nên thọ trì như thế nào?

Phật bảo Tôn Giả A Nan: Kinh này tên là Trừ Tịnh Nghiệp Chướng, cũng gọi là Thần Lực Sở Trì bất tư nghì quang Bồ Tát Sở Thuyết, nên theo như thế mà thọ trì.

Này A Nan! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào trọn đời nhất tâm phụng thờ các Đức Như Lai, cúng dường đảnh lễ, tôn trọng tán thán, dùng đủ các loại hoa nhiều như núi Tu Di, các thứ hương đốt, hương bột, hương thoa, cờ phướn, lọng báu cũng đều như vậy để cúng dường.

Lại có thiện nam, thiện nữ thọ trì Kinh pháp bất tư nghì quang sở thuyết này, đọc tụng thông suốt, ở nơi đại chúng rộng vì mọi người giảng nói, như thuyết tu hành, thì phước ấy nhiều hơn người trước.

Này A Nan! Nếu ai muốn cúng dường pháp của Như Lai, muốn được trí tuệ sáng suốt thì nên thọ trì đọc tụng Kinh này.

Phật giảng nói Kinh này rồi, Bồ Tát bất tư nghì quang, Tôn Giả A Nan, tất cả đại chúng, các hàng Trời, Người, Rồng, Quỷ Thần, Càn Thát Bà, A Tu La… nghe Phật giảng nói đều rất vui mừng.

***