Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT BẢN HẠNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống
 

PHẦN BẢY
 

Nghe như vậy! 

Một thuở nọ Đức Phật dừng chân nơi một Tinh Xá thuộc nước Ba La Nại. Theo đúng pháp của Chư Phật, ngày đêm ba thời dùng mắt của Bậc Chánh Giác quan sát chúng sinh, xem người nào có thể độ được, liền đến độ. Lúc ấy, có quan thừa tướng thuộc dòng Bà La Môn, là người giúp việc cho Vua Ba La Nại, vừa mới lập gia đình, nên ông ta rất yêu chuộng vợ.

Người vợ thưa với thừa tướng: Xin lang quân cho thiếp một điều.

Quan thừa tướng đáp: Muốn những gì cứ tùy ý nàng.

Người vợ liền thưa: Xin lang quân cho phép thiếp tổ chức cúng dường Đức Phật và chư vị Tỳ Kheo Tăng, tự tay rót nước và nghe Đức Phật thuyết pháp.

Thừa Tướng liền đồng ý và nói: Ta sẽ thuận theo những gì nàng mong muốn.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn biết được vợ chồng quan thừa tướng là người đáng độ, nên tờ mờ sáng hôm sau, Ngài đắp y, mang bát đến thẳng nhà vợ chồng quan thừa tướng.

Vợ chồng quan thừa tướng nghe Đức Phật đã đến ngoài ngõ, nên hết sức vui mừng, liền ra tận nơi cung nghinh, đảnh lễ đầu mặt sát đất, rồi thiết trí tòa ngồi, thỉnh Đức Phật thăng tòa, vợ chồng thừa tướng dâng cúng thức ăn đặc biệt tinh khiết, ngon ngọt.

Khi Đức Thế Tôn thọ trai xong, vợ chồng tự tay cầm bình rót nước để Thế Tôn rửa tay, súc miệng. Xong xuôi, Đức Phật vì vợ chồng thừa tướng mà thuyết pháp. Đức Phật tán thán công đức bố thí, trì giới sẽ sinh lên Cõi Trời hay cõi người, tự nhiên hưởng cảnh giàu có, tôn vinh, phú quý, an lạc vô cùng.

Tuy được cao sang, được thỏa chí mong cầu, nhưng không thoát khỏi cảnh khổ trong ba đường ác: Cảnh khổ trong địa ngục, như lửa đốt, nước sôi, núi đao, rừng kiếm, lò than, dao cắt, cưa sả… đau khổ vô cùng khốc liệt, không sao kể xiết.

Cảnh khổ trong Ngạ Quỷ, như thân hình tiều tụy, bụng lớn, cổ nhỏ như cây kim, tất cả lóng đốt trong thân luôn đau nhức rã rời dường như lửa đốt. Trải qua trăm ngàn vạn năm, không nghe danh từ cơm ăn, nước uống, đói khát khổ sở không thể nào diễn tả.

Lại như sự đau khổ trong loài súc sinh, với cảnh tương tàn ăn nuốt sát hại lẫn nhau cửa các loài cọp, sói, sư tử, mãng xà, rắn độc, bò cạp…

Tâm độc ác của chúng sinh trong ba đường dữ luôn dấy khởi mãnh liệt, không có mảy may tâm thiện, nên phải chịu xoay vần mãi trong cảnh khổ đau xấu ác không có thời kỳ ra khỏi. Chỉ có điều duy nhất là xả bỏ ái dục, suy tư về chân lý, như vậy mới có thể lìa được các khổ não!

Thọ thân trong Ba Cõi đều nhận lấy khổ báo. Tất cả khổ báo đều từ tập đế phát sinh. Tập là do các cấu nhiễm ái dục của ba độc, quả báo của các hành nghiệp, lại sinh ra các khổ. Nếu dứt hẳn ba độc, tiêu diệt các dục thì không có các hành nghiệp.

Các hành nghiệp đã diệt thì không thọ thân căn. Thân căn đã không thì các khổ liền diệt. Muốn diệt sạch sự ràng buộc của các hành nghiệp, điều duy nhất là phải tư duy thực hiện pháp bát chánh đạo.

Đức Phật vì thừa tướng và phu nhân thuyết pháp như vậy. Vợ chồng thừa tướng vô cùng vui mừng, ngộ được pháp Tứ Thánh Đế, nên ở ngay trước Phật chứng quả Tu Đà Hoàn.

Khi chứng đạo quả rồi, vợ chồng xem gia đình như lao ngục, thấy ái dục như lửa đốt, nên chẳng màng ân ái, quỳ mọp trước Phật xin làm Sa Môn. Đức Phật thâu nhận, tức thì hai người râu tóc tự rụng, pháp y đắp vào thân, người chồng thành Tỳ Kheo, người vợ thành Tỳ Kheo Ni, đều theo hầu Đức Phật trở về Tinh Xá.

Khi về đến Tinh Xá, Đức Phật lại vì hai người thuyết giảng về ba mươi bảy phẩm trợ đạo và các pháp thiền định Tam Muội. Hai người tư duy, tâm trí khai ngộ, dứt hẳn các dục, đều thành bậc A La Hán, đủ sáu phép thần thông diệu dụng.

Lúc ấy, chư Tỳ Kheo cùng tán dương thần lực trí tuệ của Như Lai, đồng thời ca ngợi hai vị A La Hán là những người có nhân duyên quá đặc biệt. Người chồng hiện hưởng địa vị cao sang, lại bỏ cảnh phú quý, bổng lộc vinh hiển, còn người vợ đang tuổi thanh xuân mà lìa bỏ được dục lạc. Việc của hai người rất khó làm, không ai sánh kịp.

Đức Phật bảo đại chúng Tỳ Kheo: Hai vị A La Hán này vào thời quá khứ cũng đã phát tâm lành, cho đến ngày nay tâm lành ấy cũng vậy.

Đức Phật lại nói: Vào thời quá khứ xa xưa cách đây vô lượng kiếp, Vua Ba La Ma Đạt nước Ba La Nại có vị thừa tướng tên là Tỳ Đậu Lê, là người nhân từ, thông minh học rộng, không gì là không thông đạt, luôn đem mười điều lành giáo hóa dân chúng, từ Vua cho đến mọi người không ai là không học tập, nhà Vua rất kính mến.

Khi ấy, trong biển có vị Long Vương tên là Ba Lưu Ni, Long Vương có một phu nhân tên là Ma Na Tư được Vua hết sức yêu quý.

Một hôm, Long Vương sắp lên cung Trời Đế Thích để dự đại hội, nên đem phu nhân giao cho năm trăm thể nữ ở trong cung chăm sóc, không được vì một lý do gì quấy nhiễu xúc phạm, khiến tâm phu nhân không được vui vẻ.

Sau khi Long Vương đi rồi, phu nhân ở nhà tĩnh tọa, tư duy về việc làm nơi đời quá khứ của mình. Bà nghĩ nhớ về đời trước của mình, khi làm thân người do hủy phạm giới cấm, nay phải bị đọa trong loài Rồng, tức thời chẳng vui, buồn khóc lệ trào.

Đám tỳ nữ hầu cận thấy lịnh bà chẳng vui, cùng nhau thưa hỏi: Vì cớ gì lịnh bà không vui?

Phu nhân đáp: Ta nhớ lại đời quá khứ của mình, vốn khi làm người, mặc tình phạm giới cấm nên nay phải làm thân Rồng, thọ lấy hình dáng xấu ác này, do đó mà chẳng vui.

Phu nhân lại hỏi các tỳ nữ: Các ngươi có biết làm cách nào để thoát khỏi thân Rồng, được sinh lên Cõi Trời không?

Các tỳ nữ tâu: Đem thân Rồng chứa đầy sự xấu ác này để cầu sinh lên Cõi Trời là điều rất khó. Cầu sinh làm thân người còn không thể được huống hồ là sinh vào Cõi Trời!

Trong số này, có một tỳ nữ thưa: Con từng nghe Vua Ba La Ma Đạt Cõi Diêm Phù Đề có một thừa tướng, là người hết sức nhân từ, trí tuệ vô song, tất cả Kinh Điển không loại nào là không am hiểu, ông hiểu tất cả các pháp sinh trong năm cõi, nhân, thiên… ông đem năm giới, mười điều thiện giáo hóa mọi người.

Vậy có thể đến đó hỏi ông ta, mới biết làm thế nào để thoát khỏi thân Rồng và thực hiện những pháp gì để được sinh lên Cõi Trời.

Khi Long Vương trở về, thấy dung nhan của phu nhân không được vui, liền hỏi: Vì cớ gì hậu không được vui?

Phu nhân đáp: Hậu nghe tại Cõi Diêm Phù Đề, Vua Ba La Ma Đạt nước Ba La Nại có quan thừa tướng tên là Tỳ Đậu Lê, là người hết sức nhân từ, thương xót chúng sinh, trí tuệ tuyệt vời, tất cả Kinh Điển không một loại nào là không thông suốt. Hậu muốn được trái tim ông ấy để ăn, muốn được máu ông ấy để uống. Nếu bắt được ông ấy thì nỗi buồn của hậu mới khuây khỏa.

Long Vương đáp: Khanh chớ có phiền muộn, ta sẽ làm theo ý muốn của khanh.

Long Vương có một người bạn Dạ Xoa chí thân tên là Bất Na Kỳ.

Long Vương nói với Dạ Xoa: Bỗng dưng phu nhân của ta nghe Cõi Diêm Phù Đề nước Ba La Nại, nhà Vua có một thừa tướng tên là Tỳ Đậu Lê là người nhân từ, trí tuệ đệ nhất, tất cả Kinh Điển không loại nào là không thông suốt. Phu nhân của ta muốn được trái tim và máu của ông ấy để về ăn uống, xin bạn niệm tình ta mà bắt cho được ông ấy đến đây.

Nói rồi, Long Vương liền lấy hai hạt minh châu trao cho Dạ Xoa. Dạ Xoa liền nhận lời, cất hạt minh châu, liền đi.

Khi Dạ Xoa đến Cõi Diêm Phù Đề, hóa làm khách buôn, cầm hai hạt ngọc Ma Na đi vào trong thành Ba La Nại, khách đi đường hỏi người lái buôn: Người cầm ngọc này muốn bán phải chăng?

Người lái buôn đáp: Ta không bán nó, ta muốn dùng nó trong cuộc vui đỏ đen thôi.

Người nghe tức thì vào triều tâu Vua: Bên ngoài có một khách buôn mang theo hai viên ngọc báu muốn trổ tài trong cuộc vui đỏ đen.

Nhà Vua nghe nói trong lòng rất mừng, vì luôn tự ỷ lại nơi tài cờ bạc của mình, cho rằng nhất định thắng cuộc. Vua ra lệnh cho vào, khách buôn liền vào trong nội cung.

Nhà Vua hỏi khách buôn: Trong cuộc đỏ đen, nhà ngươi muốn cá những gì?

Dạ Xoa đáp: Nếu tôi thắng cuộc thì Đại Vương đem Đại Thần Tỳ Đậu Lê giao cho tôi. Còn nếu nhà Vua đắc thắng thì hai hạt minh châu này thuộc về nhà Vua.

Nhà Vua liền đồng ý. Chư Quần Thần tả hữu cùng nhau can gián.

Nhà Vua vì tham lợi và ỷ lại vào tài nghệ trong lãnh vực cờ bạc của mình, nên bảo với Quần Thần: Ta nhứt định thắng cuộc, các khanh khỏi phải can ngăn.

Liền cùng nhau vào cuộc, kết quả Dạ Xoa đắc thắng, được Đại Thần Tỳ Đậu Lê. Lúc ấy Dạ Xoa tóm lấy Tỳ Đậu Lê bay thẳng lên hư không.

Nhà Vua mất Tỳ Đậu Lê, trong lòng hết sức ưu sầu.

Tất cả Quần Thần đều tâu:

Nếu nhà Vua làm năm việc này sẽ mất ngôi, mất nước:

1. Ham vui cờ bạc.

2. Ưa thích uống rượư.

3. Say đắm nữ sắc, đam mê âm nhạc.

4. Thích đi săn bắn.

5. Chẳng nghe lời can gián của trung thần.

Làm theo năm việc này thì ngôi Vua chẳng giữ được bao lâu.

Nói về Dạ Xoa, vác Tỳ Đậu Lê đi đến giữa núi, định giết.

Tỳ Đậu Lê hỏi Dạ Xoa: Tại sao giết ta?

Dạ Xoa đáp: Phu nhân của Long Vương nghe ông là người nhân từ, thông minh trí tuệ bậc nhất, muốn được máu và trái tim ông để ăn uống. Đó là lý do khiến ta giết ông.

Tỳ Đậu Lê nói: Ông ngu si chẳng hiểu dụng ý của phu nhân, phu nhân nghe danh ta, muốn được máu ta nghĩa là muốn được nghe giáo pháp của ta. Phu nhân muốn được tim ta nghĩa là muốn được trí tuệ trong tâm ta. Thôi, hai ta đồng đến gặp phu nhân, xem phu nhân cần những gì, ta sẽ cho tất cả.

Rồi Tỳ Đậu Lê vì Dạ Xoa mà nói pháp người làm ác có năm việc:

1. Làm việc bộp chộp, không đắn đo suy nghĩ.

2. Sau khi hành động rồi thường ôm nhiều hối hận.

3. Nhiều sân hận, không có từ tâm.

4. Tiếng ác đồn xa, mọi người chán ghét không muốn thấy mặt.

5. Chết rồi bị đọa vào trong ba đường ác.

Người làm việc thiện có năm điều tốt.

Năm thứ đó là những gì?

1. Trước khi làm một việc gì phải suy nghĩ chín chắn, có đường lối hẳn hoi, không vội vã hấp tấp, nên về sau khỏi hối hận.

2. Giàu lòng Từ bi, không manh tâm làm hại người.

3. Tiếng tốt được lưu truyền khắp nơi.

4. Được mọi người ái kính, xem như bậc cha mẹ, Sư Trưởng.

5. Sau khi chết được sinh lên Trời hay trong nhân gian được hưởng mọi cảnh an lạc.

Dạ Xoa nghe những lời giảng giải như vậy, tâm trí liền được khai ngộ, đảnh lễ đầu mặt sát chân Tỳ Đậu Lê, cầu xin Tỳ Đậu Lê nhận sự sám hối. Tỳ Đậu Lê vì Dạ Xoa nói mười pháp lành để được sinh lên Cõi Trời. Dạ Xoa nghe pháp, lòng vui mừng hớn hở vâng làm.

Dạ Xoa liền đưa Tỳ Đậu Lê đến Long cung. Phu nhân thây Tỳ Đậu Lê thì vô cùng hoan hỷ, đầu mặt đảnh lễ sát đất, cúi đầu quy mạng, rồi trần thiết bảo tọa, dâng cúng mỹ vị trăm món.

Khi ấy, Tỳ Đậu Lê vì Long Vương và phu nhân giảng nói về pháp nhân quả họa phước trong năm đường: Giữ thân không làm ba điều ác:

1. Đem lòng Từ bi thương xót chúng sinh, không làm điều tổn hại.

2. Trừ bỏ lòng tham lam bỏn sẻn, làm những việc nghĩa giúp đỡ lẫn nhau, không sinh tâm trộm cắp.

3. Quán sự dâm dạc là nhơ nhớp, đem tâm lìa nữ sắc, sống cuộc đời trong sạch, không dâm dục.

Giữ miệng không làm bốn điều ác:

1. Lời nói luôn luôn thành thật, không dối trá.

2. Thường nói lời mềm mỏng, không nói lời thô lỗ, cộc cằn.

3. Không nó lời gây kiện tụng, bè phái, hòa giải được mọi tranh chấp.

4. Lời nói phải thành thật, không nên trau chuốt, dối gạt.

Giữ ý không làm ba điều ác:

1. Tâm thường từ bi nhẫn nhục, không khởi sân hận.

2. Thấy người thành công tốt đẹp ta mừng cho họ, không có tâm ganh tỵ.

3. Một lòng sùng kính Tam Bảo cho đến giới luật, hiểu rõ tội phước, không hồ nghi.

Thực hành đầy đủ mười điều lành này, không hủy phạm, liền được sinh lên Cõi Trời, cung điện bằng bảy báu, mọi nhu cầu tùy theo ý muốn được có tự nhiên.

Giữ đủ năm việc: Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và dứt hẳn rượu chè không được say sưa, sẽ được sinh trong loài người, thuộc dòng hoàng gia hay nhà trưởng giả, địa vị cao sang, giàu có sung sướng vô cùng.

Không có tâm từ, giết hại chúng sinh, cướp đoạt của người, trộm cướp làm điều trái phép, tư thông vợ người, đam mê ái dục vô độ, nói lời không thật, nói lời hai chiều, nói lời thô ác, mắng nhiếc người ta, sân hận ganh ghét, không hiếu thuận với cha mẹ, không tin Tam Bảo, bỏ chánh theo tà…, ai làm những điều ác này, sau khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục, bị thiêu đốt đánh đập, vạn sự độc ác, trải qua bao nhiêu sự đau khổ không thể nào kể xiết.

Mắc nợ chẳng đền, được vay không trả, không tin nhân quả, kiêu mạn tự đại, hủy báng Tam Bảo…, chết đọa làm loài súc sinh như ngựa, lạc đà, heo, dê, chó, sư tử, hổ, sói, rắn độc, bò cạp, kỳ đà…, cho đến các loài cầm thú khác. Tâm chúng hết sức độc ác, giết hại lẫn nhau, xoay vần chịu khổ không có thời kỳ ra khỏi.

Tham lam, bỏn sẻn, ganh ghét, không chịu bố thí, không dám ăn mặc, không tin Tam Bảo…, bị lửa bỏn sẻn đốt cháy, chết đọa làm ngạ quỷ, thân hình tiều tụy, lóng đốt rã rời, toàn thân như lửa nung, trăm ngàn vạn năm không có lúc nào xen hở, ngày đêm đói khát, hoàn toàn chưa từng nghe danh từ cơm ăn, nước uống.

Chỉ thực hiện mười điều lành, giữ thân, khẩu, ý thì luôn luôn được sinh lên Trời hưởng diệu lạc vô cùng.

Lúc ấy Long Vương, phu nhân và tất cả loài Rồng đều kinh sợ dựng chân lông. Tất cả đều vâng thọ mười điều lành, giữ thân, khẩu, ý, thọ bát quan trai một cách hoan hỷ. Đang khi ấy bỗng có chim đại bàng cánh vàng muốn đến ăn thịt loài Rồng, dùng hết thần lực mà không tới gần được. Tất cả loài Rồng vui mừng vô cùng, vì thấy điều chưa từng có.

Long Vương, phu nhân, tất cả loài Rồng trong biển cả cùng tất cả quỷ Dạ Xoa đều tu theo pháp thập thiện, không ai là không hoan hỷ cúi đầu đảnh lễ Tỳ Đậu Lê.

Long Vương liền hỏi Tỳ Đậu Lê: Đại Sư muốn trở về Diêm Phù Đề không?

Tỳ Đậu Lê đáp: Muốn về.

Long Vương bèn đem hương chiên đàn, ngọc Ma ni và các vật quý báu khác dâng cúng cho Bồ Tát. Phu nhân, thể nữ, tất cả Rồng và các quỷ Dạ Xoa đều đem ngọc ngà quý báu lạ thường, dâng lên cho Tỳ Đậu Lê, rồi cùng tiễn đưa trở về cho đến tận nước Ba La Nại mới cúi đầu hoan hỷ từ biệt.

Loài Rồng và các quỷ Dạ Xoa ở trong biển lớn, tâm độc ác đều được tiêu diệt, sau khi chết đều được sinh lên Cõi Trời.

Vua Ba La Ma Đạt và chư vị Quần Thần cùng tất cả dân chúng thây Tỳ Đậu Lê trở về trong lòng rất đổi vui mừng, đầu mặt sát đất đảnh lễ hỏi han cớ sự?

Tỳ Đậu Lê trình bày đầy đủ đầu đuôi sự việc với nhà Vua. Đại Vương và thần dân không ai là không hoan hỷ, ca ngợi điều chưa từng có. Tỳ Đậu Lê lại đem ngọc Ma ni treo trên đầu cây phướn, chí tâm cầu nguyện, tức thời khắp trong Cõi Diêm Phù Đề Trời mưa bằng bảy báu, áo mền, các thức ăn uống… vô lượng dân chúng Quần Thần đều được giàu có, an lạc.

Bấy giờ, Vua Trời Đế Thích, Vua cõi người, Long Vương nơi đại hải và Vua Đại Bàng cánh vàng Ca Lưu đều xả bỏ dục lạc, vào nơi thâm sơn đầm vắng ăn chay tọa thiền, tự kiềm chế thân tâm, mỗi người đều tự nói mình đạt được phước đức nhiều nhất.

Vua Cõi Trời tự nói: Ta xả bỏ dục lạc trên Cõi Trời, ngày nay đến nơi đây giữ gìn thân khẩu ý, ta được phước đức nhiều.

Vua cõi người lại nói: Ta xả bỏ các thứ vui về năm dục trong cung điện, đến nơi đây thu nhiếp thân ngữ ý, ta được phước đức nhiều.

Long Vương lại nói: Ta xả bỏ các thứ dục lạc nơi cung điện bảy báu trong biển cả, nay đến chốn này chế ngự thân ngữ ý, ta được phước đức nhiều.

Vua Đại bàng cánh vàng cũng nói: Long Vương này là món ăn của ta, ta nay trì trai giữ thân ngữ ý, không còn tâm làm tổn hại, cho đến không còn ăn thịt, ta được phước đức nhiều.

Lúc ấy, bốn Vua tự than rằng chưa thể quyết định vị nào được phước đức nhiều, nên cùng nhau bàn: Phải cùng đến hỏi Đại Sư Tỳ Đậu Lê.

Bốn vị liền đến chỗ Tỳ Đậu Lê, đầu mặt đảnh lễ sát đất, mỗi người đồng bạch: Xin Đại Sư xem xét ai là người được phước đức nhiều?

Bồ Tát đáp: Các ông hãy dựng bốn cây phướn, một cây màu xanh, một cây màu trắng, một cây màu vàng và một cây màu đỏ.

Bốn Vua liền vâng lời dựng bốn cây phướn.

Bồ Tát lại hỏi.

Cái bóng của bốn cây phướn kia có khác nhau không?

Có phái chỉ là một màu chăng?

Bốn Vua đồng đáp: Màu sắc mỗi cây phướn khác nhau, nhưng bóng của chúng thì đồng một màu không khác.

Bồ Tát nói: Bốn Vua các ông đều xả bỏ mọi thú vui dục lạc của mình, đồng đến đây trì giới, giữ gìn thân khẩu ý, công đức của mỗi người đồng đều, không có sai khác, như bốn cây phướn có màu sắc khác nhau, mà bóng của chúng thì cùng một loại không khác.

Lúc đó bốn vị Vua nghe Bồ Tát nói thế thì tâm ý đều thông tỏ nến hết sức vui mừng. Vua Cõi Trời Đế Thích bèn đem áo bằng bông Cõi Trời cúng dường cho Bồ Tát. Vua cõi người thì đem đủ các loại ngọc quý cúng dường cho Bồ Tát. Long Vương trong biển cả thì đem ngọc báu Ma ni trên búi tóc của mình dâng cúng Bồ Tát. Vua chim Đại bàng cánh vàng thì đem dây thao quân tóc dâng cúng Bồ Tát.

Lúc ấy, bốn Vua rất hoan hỷ lễ tạ từ biệt. Bấy giờ dân chúng Cõi Diêm Phù Đề, Rồng cùng Dạ Xoa luôn tu thập thiện, hễ ai mạng chung đều được sinh lên Trời, không ai bị đọa vào ba đường ác.

Đức Phật bảo chư Tỳ Kheo: Đại Sư Tỳ Đậu Lê thời ấy là thân ta ngày nay. Long Vương Ba Lưu Ni thời ấy nay là quan thừa tướng, phu nhân Ma Na Tư thời ấy nay là vợ quan thừa tướng. Khi xưa làm Rồng theo ta nghe pháp, hoan hỷ ghi nhớ vào lòng, được thoát khỏi thân Rồng sinh lên Cõi Trời.

Nay ta thành Phật, lại theo ta nghe pháp, tâm sinh hoan hỷ, ý được tỏ ngộ, liền xuất gia, tư duy theo trí tuệ, đoạn tuyệt các dục, cả hai đều chứng A La Hán. Trong quá khứ cũng nhờ tâm lành, cho đến ngày nay cũng nhờ nơi tâm lành.

Các Tỳ Kheo nghe lời Đức Phật nói, tất cả đều hoan hỷ cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn.

***