Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT BẢN HẠNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống
 

PHẦN NĂM
 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn hiện Đại Thần thông biến hóa, hào quang chiếu khắp mười phương Thế Giới. Trong toàn cõi Đại Thiên mưa xuống các thứ hoa trời, vô lượng các thứ kỹ nhạc không người điều khiển mà tự nhiên hòa tấu. Đại chúng, Chư Thiên, muôn dân không ai là không vui mừng, hớn hở.

Khi ấy, Đức Thế Tôn thu nhiếp thần túc, tất cả Hóa Phật trong hào quang liền xoay về nhiễu quanh Đức Thế Tôn ba vòng, rồi nhập vào sau lưng kim thân.

Vô lượng Chư Thiên cùng tất cả đại chúng đồng ca ngợi Đức Như Lai: Công đức của Như Lai thật vòi vọi, không thể nghĩ bàn, tính toán!

Lúc ấy, Tôn Giả A Nan chắp tay quỳ mọp trước Đức Phật bạch: Đức Phật không bao giờ cười suông nên khi Ngài cười là có duyên cớ.

Nụ cười hoan hỷ của Đức Phật ngày hôm nay như vậy, ắt là sẽ nói về các việc làm nơi đời trước của mình chăng?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan và đại chúng: Vào thuở quá khứ lâu xa vô lượng vô số kiếp, tại Cõi Diêm Phù Đề này có một vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Tu Đà Lê Thiện Ninh trì vị bốn châu thiên hạ. Cõi Diêm Phù Đề này có tám vạn bốn ngàn Vua tiểu quốc với tám vạn bốn ngàn thành.

Nhà Vua có bảy thứ báu: Thứ nhất là kim luân, bánh xe này có một ngàn tăm, đường kính bốn mươi dặm, chu vi khoảng một trăm hai mươi dặm. Khi nhà Vua muốn ra đi, thì kim luân dẫn đường đi trước, không cần sức người, trên đầu kim luân tự nhiên xoay suốt, khi muốn đứng lại thì tự nhiên dừng nghỉ, không cần vật ngăn cản.

Thứ hai là ngọc Ma ni, nếu treo ngọc trên đầu cây phướn, thì suốt ngày đêm ánh sáng chiếu xa đến một ngàn sáu trăm dặm.

Thứ ba là voi trắng, thân nó rất dài, đẹp đẽ lạ thường, sắc trắng như tuyết. Nhà Vua cỡi trên mình thì tự nhiên bay đi khắp bốn châu thiên hạ chỉ trong khoảng thời gian một bữa ăn.

Thứ tư là ngựa màu xanh biếc, lông bờm và lông đuôi màu đỏ tươi, nhà Vua cỡi lên mình, thì nó phi khắp cõi thiên hạ chỉ trong khoảng thời gian một bữa ăn.

Thứ năm là quan thống lãnh binh lính, như ý nhà Vua cần có trăm ngàn vạn hùng binh, thì tự nhiên quân lính kéo đến.

Thứ sáu là quan quản thủ kho tàng, nếu nhà Vua muốn dùng vàng, bạc, bảy báu, quần áo, mùng mền, đồ ăn uống… thì hai tay của quan liền mang đầy đủ bảy báu, tài sản, tất cả nhu cầu cần thiết đến ngay, rồi tùy theo ý của nhà Vua, các vật dụng cứ hiện ra trong hai tay không bao giờ cùng tận.

Thứ bảy là ngọc nữ, hình dung tươi đẹp không ai sánh kịp, giống như Tiên Nữ Cõi Trời, không chút cấu uế, bất tịnh như những người nữ bình thường khác, thân thể trong lành như hoa sen xanh tỏa hương thơm ngào ngạt.

Khi ý nhà Vua muốn được mát mẻ, thì thân người nữ tự nhiên mát rượi, khi nhà Vua muốn ấm áp thì thân người nữ tự nhiên ấm áp, tiếng như Phạm Âm, thường khiến nhà Vua hoan hỷ vô cùng, gọi là ngọc nữ bảo.

Nhà Vua có một ngàn người con, dũng mãnh phi thường, khi Vua sắp ra đi thường có lọng bảy báu luôn che trên đầu, bảy thứ báu kia và vô số quần thần hộ vệ trước sau, một trăm, một ngàn kỹ nhạc cùng hòa tấu, âm thanh vi diệu, trang nghiêm, oai vệ không sao kể xiết.

Thái Tử nhỏ nhất trong số một ngàn người con của nhà Vua, thấy Vua như vậy nên thưa hỏi mẫu hậu: Đây là vị quốc vương nào mà oai phong như thế?

Mẫu hậu đáp: Đó là đại Chuyển Luân Vương Tu đà lê Thiện Ninh, trị vì bốn châu thiên hạ, là cha của con, sao con lại không biết?

Thái Tử lại hỏi: Con chừng nào sẽ được làm Vua?

Mẫu hậu đáp: Phụ Vương có một ngàn người con, con là đứa con út nên không được làm Vua.

Thái Tử lại nói: Nếu không được làm Vua, ở tại gia làm kẻ bạch y làm gì?

Liền quỳ mọp trước mẫu hậu thưa: Cúi xin mẫu hậu cho con được phép xuất gia làm Sa Môn, vào trong núi sâu, đầm vắng tu học đạo Tiên.

Mẫu hậu liền đồng ý và nói: Nếu con tư duy chứng được trí tuệ, quyết phải trở về cho ta biết.

Thái Tử đồng ý, liền xuống tóc, mặc áo hoại sắc, vào trong đầm núi tinh tấn tọa thiền, tư duy về trí tuệ. Trong hiểu rõ về ngũ ấm, ngoài biết muôn vật tất cả đều vô thường, tất cả thọ thân đều là sự chứa nhóm của các khổ.

Như Chuyển Luân Thánh Vương là bậc hào kiệt, tài giỏi hơn người, làm chủ cõi đời, được tam giới tôn vinh nhưng cũng như trò ảo thuật không có chủ tể. Duyên hợp thì có, duyên tan thì không, đều từ nhân si ái mà có các hành nghiệp.

Do các hành nghiệp mà thọ tất cả thân nên chịu quả khổ trong năm đường, nếu không có các si ái thì không có các hành nghiệp, không có hành nghiệp thì không có năm đường, do không có năm đường thì không có thọ thân, do không có thân thì các khổ liền diệt.

Tư duy như vậy, bỗng nhiên tâm trí được khai ngộ, chứng đạo quả Bích Chi Phật, sáu phép thần thông thấu triệt không gì ngăn ngại, rồi bay vọt lên hư không, biến hóa đủ cách.

Bích Chi Phật nhớ lời hứa cũ liền trở về thăm mẫu hậu, hiện thần túc thông bay trên hư không, lúc đi kinh hành, lúc thiền tọa, lúc thì nằm, trên thân phun ra nước, dưới thân phun ra lửa, trên thân phun ra lửa, dưới thân phun ra nước, một thân phân ra làm trăm ngàn vạn cho đến vô số thân, rồi trăm ngàn vạn thân hiệp lại thành một thân. Mẫu hậu thấy sự biến hóa như vậy, trong lòng rất vui mừng liền đảnh lễ đầu mặt sát đất.

Mẫu hậu lại hỏi: Thái Tử sinh sống bằng cách nào?

Đáp: Khất thực để tự sống.

Mẫu hậu lại nói: Chớ nên khất thực, hãy nhận lời mời của ta, từ nay về sau Tôn Giả sẽ ở trong vườn này, nguyện ngày ngày sẽ nhận đồ ăn uống do ta cúng dường, cũng để cho ta có cơ duyên làm chút phước đức.

Bích Chi Phật nhận lời mời của mẫu hậu, ở lại trong Thượng Uyển. Bà ta ngày ngày tự mình mang thức ăn đến dâng cúng cho Bích Chi Phật.

Trải qua được vài năm, một hôm, tự nghĩ: Thân này nhơ nhớp, không chút trong sạch, thân là món đồ chưa các thứ đau khổ, dùng nó làm gì?

Liền xả bỏ thân mạng, nhập vào tịch diệt đạt đến Niết Bàn vô dư. Mẫu hậu làm lễ Trà Tỳ, thâu xá lợi, xây Tháp dùng hoa hương cúng dường.

Một hôm nọ, nhà Vua dạo chơi trong khu thượng uyển, thấy Bảo Tháp ấy liền hỏi quan cận thần: Nguyên vườn này không có Bảo Tháp, ai là người xây cất?

Mẹ Bích Chi Phật liền tâu: Đây là Bảo Tháp người con út trong số các Thái Tử của nhà Vua.

Một hôm trông thấy nhà Vua ngự giá người con ấy đã hỏi thiếp: Đây là Đại Vương nào mà oai nghiêm như thế?

Thiếp đáp: Chuyển Luân Thánh Vương Tu Đà Lê Thiện Ninh, là cha của con.

Người lại hỏi tiếp: Con chừng nào sẽ được làm Vua?

Thiếp đáp: Con là Thái Tử nhỏ nhất trong một ngàn Thái Tử, nên không được làm Vua.

Người lại thưa: Nếu không được làm Vua thì ở tại gia làm bạch y làm gì?

Nên xin phép mẫu hậu cho con từ biệt, xuất gia học đạo.

Thiếp đã đồng ý, nhưng với lời giao ước: Nếu con đắc đạo thì nhất định sẽ về thăm mẹ. Người liền cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc vào tận chốn núi sâu đầm vắng tinh tấn thiền tọa, chứng được đạo quả Bích Chi Phật.

Người đã giữ lời hứa nên trở về thăm thiếp. Thiếp mời ở lại trong vườn Thượng này, ngày ngày cúng dường cơm nước và những vật cần dùng. Trải qua nhiều năm như vậy, rồi nhập Niết Bàn. Thiếp đã làm lễ trà tỳ và xây Tháp thờ tại đây. Chính là Tháp của Bích Chi Phật, con ta.

Nhà Vua nghe hoàng hậu tâu qua, trong lòng buồn vui lẫn lộn, rồi bảo với hoàng hậu: Sao khanh lúc ấy không nói cho ta biết! ta sẽ đem ngôi Chuyển Luân Thánh Vương truyền trao cho người. Ta lấy làm hối tiếc là đã không được nghe lời tỏ bày. Nhưng nay người tuy nhập Niết Bàn rồi, ta vẫn đem vương vị trao cho Thái Tử út của ta.

Nhà Vua liền cởi chiếc thiên quan bằng bảy báu cùng những đồ phục sức tốt đẹp đắp lên trên Bảo Tháp, đầu mặt sát đất đảnh lễ, dùng hoa hương, kỹ nhạc cúng dường, lòng rất vui mừng.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Chuyển Luân Tu Đà Lê Thiện Ninh lúc ấy là thân ta ngày nay. Con ta lúc ấy thành Bích Chi Phật, ta cúng dường nơi Bảo Tháp của Bích Chi Phật ấy, rồi đem ngôi Vua dâng lên, cùng chiếc lọng lớn bằng bảy báu che trên Tháp báu.

Do nhân duyên của công đức đó, vô lượng số kiếp, ta làm Chuyển Luân Thánh Vương trị vì bốn châu thiên hạ và bảy thứ báu luôn có bên ta, thường có ba ngàn lọng bằng bảy báu tự nhiên hiện đến. Vô lượng vô sốkiếp làm Thiên Đế hay Phạm Vương. Cho tới ngày nay, nếu ta không thành Phật thì ba ngàn lọng bảy báu vẫn có đến vô tận, không bao giờ chấm dứt.

Cúng dường Tháp một Bích Chi Phật đạt được công đức không thể cùng tận, huống gì là cúng dường nơi sắc thân của Như Lai và sau khi Phật diệt độ, xây Tháp thờ xá lợi, hay tạo tượng Phật để cúng dường… thì công đức này vượt hẳn công đức cúng dường nơi Tháp Bích Chi Phật kia gấp trăm ngàn lần, không thể tính kể, không thể ví dụ.

Bấy giờ, tất cả đại chúng hết sức vui mừng, tâm được khai ngộ, có người chứng quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Hoặc có người phát tâm cầu đạo quả Vô Thượng chánh chân, hoặc có người trụ nơi quả vị bất thoái chuyển, số ấy không thể kể xiết.

Tất cả đại chúng đều hết sức hoan hỷ, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đầu mặt sát đất đảnh lễ, mỗi người lần lượt trở về chỗ ở của mình.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn tiến vào thành Tỳ Xá Ly, khi đến cửa thành, Ngài nói kệ:

Thiên thần trên mặt đất

Chư Thiên tại hư không

Những ai đến chỗ này

Đều phải phát Từ tâm.

Ngày đêm sinh hoan hỷ

Thực hành theo chánh pháp

Độc hại chớ để lòng

Quấy nhiễu các dân chúng.

Khi Đức Như Lai nói lời chân chánh vi diệu như vậy, thì đám quỷ gây bệnh tật đều chạy về hướng nước Ma Kiệt Đà, nhờ vậy dịch bệnh trong nước Tỳ Xá Ly đều được tiêu trừ. Đức Phật phải quay trở về nước Ma Kiệt Đà, thì đám quỷ gây bệnh tật ấy lại chạy sang nước Tỳ Xá Ly.

Do đó, Đức Thế Tôn phải qua lại hai nước đến bảy lần, cuối cùng lại nói: ta từ vô số kiếp đến nay, tạo được bao nhiêu công đức, đều nhằm để phát đại nguyện. Nay ta đem việc làm chân chánh này để trừ tâm bệnh và thân bệnh cho tất cả chúng sinh.

Đức Phật kể: Khi ta làm Vua tên là Thi Tỳ, vì một con bồ câu mà tự cắt thịt trên thân mình, ta đã phát lời thệ nguyện trừ diệt tận mọi nguy hiểm cho tất cả chúng sinh.

Khi ta làm Thái Tử tên là Ma Ha Tát Đỏa, vì hai mẹ con cọp đói mà ta xả bỏ thân mạng cho cọp được sống.

Khi ta làm Vua tên là Xá Thi, tự lấy thịt nơi thân mình hiến cho người bệnh trải qua mười hai năm.

Khi ta làm Vua tên là A Di Đà Da Lương, bị bệnh, tự chế thuốc để uống, lúc ấy có một vị Bích Chi Phật mắc bệnh đồng như nhà Vua, đến chỗ nhà Vua xin thuốc.

Nhà Vua nhịn không uống thuốc, đem phần thuốc của mình cúng cho Bích Chi Phật, rồi phát đại nguyện: Nguyện cho tất cả bệnh chúng sinh đều được diệt trừ.

Khi ta làm Vua tên là Tu Đà Tố Di, ta cứu được mạng sống cho một trăm Vua sắp chết và đã cải hóa Vua Ca Ma Sa Bạt khiến ông ta đạt được chánh kiến, lời thề ác của Ca Ma Sa Bạt trong mười hai năm đều được tiêu trừ.

Khi ta làm Thái Tử tên là Tu Đại Noa đã đem bố thí cả vợ lẫn hai con.

Khi ta làm Thái Tử Ma Hưu Sa Đà, đã đem thuốc chữa bệnh cho tất cả chúng sinh, lại vào trong biển lớn tìm được ngọc Ma ni, đem về giúp đỡ cho dân chúng khỏi cảnh đói nghèo.

Khi ta làm Vua tên là Ma Ha Bà Lợi, trải qua hai mươi bốn ngày đem thịt thân mình cung cấp cho người bệnh.

Khi ta làm Tiên Nhân tên là San Đề Bà La bị cắt đứt tay chân mà tâm không hề khởi sân hận.

Khi ta làm Vua tên là Ca Thi, dân chúng trong nước bị tật bệnh, nhà Vua thọ bát quan trai giới, phát tâm đại từ bi đến tất cả chúng sinh, nên tất cả dân chúng trong nước đều được lành bệnh.

Khi ta làm thầy giải trừ chú thuật tên là Tỳ bà phù, dân chúng bị bệnh dịch hoành hành, ta đem máu thịt của mình cho loài quỷ gây bệnh ăn để dùng vào việc giải trừ, tất cả dân chúng đều được lành bệnh.

Khi ta làm Phạm Thiên Vương, vì một bài kệ, đã tự lột da trên thân mình làm giấy chép kệ.

Khi ta làm Vua tên là Tỳ Lăng Kiệt Lê, vì một bài kệ, trên thân chịu đóng một ngàn đinh.

Khi ta làm Tiên nhân tên là Ưu Đa Lê, vì một bài kệ mà ta tự lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, lấy máu làm mực.

Khi ta làm Vua tên là Bạt Di, dân chúng trong nước bị bệnh ghẻ lở, nhà Vua đang đi, thấy một cây độc, lá cây độc này rụng vào dòng nước, người nào uống nhằm nước ấy thì sinh ra bệnh. Nhà Vua liền ra lệnh chặt cành, đào gốc rễ rồi dùng lửa đốt rụi, thì một nửa dân chúng được lành bệnh, còn một nửa thì bệnh vẫn như cũ, không thuyên giảm.

Vua hỏi quan ngự y: Vì cớ gì một số dân chúng mắc bệnh không bớt?

Quan ngự y đáp: Bệnh ghẻ này quá trầm trọng cần ăn cá mới bớt.

Vua nghe lời quan ngự y, liền đến trên cây bên bờ sông, nguyện làm cá, nguyện rằng: ta ngày nay đem thân trừ bệnh cho muôn loài, nguyện đem công đức này cầu thành Phật Đạo, để diệt trừ vô lượng tâm bệnh, thân bệnh cho khắp tất cả chúng sinh, đều như sở nguyện. Nếu có chúng sinh nào được ăn thịt của ta, thì tất cả bệnh tật đều được lành khỏi.

Phát lời thệ nguyện rồi liền từ trên cây gieo mình xuống dòng nước, thân nhà Vua biến thành cá, biết nói tiếng người.

Cá nói: Hễ ai có bệnh, đến bắt cá này về ăn thịt sẽ được lành bệnh.

Dân chúng nghe lời nói ấy, đều đến bắt cá về ăn thịt, nhờ vậy tất cả bệnh đều được lành hết.

Đức Thế Tôn đã tự kể về việc làm nơi đời trước của mình như vậy, tất cả những lời nguyện ấy ngày nay đều được thành tựu.

Đức Phật nói: Nay ta dùng giáo pháp chân chánh để trừ diệt tai họa cho tất cả chúng sinh. Khi ấy, Đức Phật liền tự hóa một thân thành hai đầu, một đầu ngó về nước Tỳ Xá Ly, một đầu ngó về nước Ma Kiệt Đà, tất cả đám quỷ gây bệnh đều chạy ra xa tận biển khơi.

Dân chúng hai nước, mọi thứ tật bệnh đều được lành khỏi, lúa thóc hoa màu được mùa, muôn dân an lạc. Ngài đem Phật Pháp giáo hóa, khiến mọi tâm bệnh dục vọng nơi mọi người đều được thanh tịnh, trụ trong chánh pháp, tất cả người dân đều hết sức vui mừng.

Lúc đó, các vị Tỳ Kheo khác miệng đồng lời cùng tán thán: Công đức Như Lai thật là vô lượng, vô cùng vi diệu không thể nghĩ bàn.

Đức Phật lại bảo chư vị Tỳ Kheo: ta chẳng những trừ diệt những tai họa, đói khát, bệnh tật cho chúng sinh trong đời nay, mà trong thời quá khứ cũng lại như vậy.

Về thời quá khứ vô số kiếp xa xưa, tại Cõi Diêm Phù Đề này có vị Vua của một nước lớn tên là Phạm Thiên, tám vạn bốn ngàn Vua tiểu quốc thuộc Cõi Diêm Phù Đề. Nhà Vua có hai vạn phu nhân, một vạn thể nữ, lại không có Thái Tử.

Ngày đêm ưu sầu, nên cầu khẩn nơi các đền thờ thần linh: Phạm Thiên, Đế Thích, Ma Ha Bá Lê Thiên, cầu Trời đất, cầu mặt trăng, mặt trời. Nhân đó mới sinh được Thái Tử.

Thái Tử sinh ra, hình dung đoan nghiêm, đẹp đẽ lạ thường, có tướng đại nhân, quý danh là Đại Tự Tại Thiên. Thái Tử là người nhân từ, thông minh, trí tuệ, tất cả sách vở của thế gian, mọi sự chuyển biến của tinh tú, nhật thực, nguyệt thực và tất cả kỹ thuật ngoài đời không một nghề nào là không thông đạt.

Thái Tử lại học nghề thầy thuốc và cách bào chế dược phẩm, lại ra lệnh cho tất cả bệnh nhân trong nước: Hễ ai có bệnh thì hãy đến đây ta sẽ cung cấp thuốc men, thực phẩm và chăm sóc.

Dân chúng được tin này, bao nhiêu người bệnh đều đổ xô về chỗ ở của Thái Tử. Tất cả người lớn, kẻ nhỏ trong nước đều vui vẻ, không một ai là không ca ngợi công đức này. Bệnh nhân không đến các thầy thuốc khác, trong đó có một số thầy thuốc tỏ ra khinh mạn, hầu hết đám này đều ôm lòng oán hận, ganh tỵ với Thái Tử.

Thời gian này, dân chúng Cõi Diêm Phù Đề bị bệnh dịch lan tràn, lại thêm cảnh củi quế gạo châu. Nhà Vua đã tập trung tất cả danh y mà không chữa khỏi bệnh, dân chúng bị bệnh chết từng ngày, từng ngày tăng lên rất nhiều. Nhà Vua rất đỗi ưu sầu, bèn ra chiếu chỉ mời các danh y về triều để hỏi phương thuốc cứu chữa.

Lúc ấy, có một thầy thuốc sẵn lòng đố kỵ với Thái Tử, trong tâm suy nghĩ: Thái Tử này là oan gia của ta, nay đúng là gặp dịp may hiếm có, liền tâu lên nhà Vua: Thần nhớ có một phương thuốc xin thử về xem lại cho tường tận.

Nhà Vua đồng ý, ông ta liền đi, sáng hôm sau mới trở lại, đến trước Đại Vương tâu: Tâu Đại Vương, thần tìm được một phương thuốc, nếu như Đại Vương đồng ý thì tất cả bệnh tật đều được trừ lành.

Vua liền hỏi: Phải cần những dược liệu gì?

Khanh cứ nói thử xem!

Thầy thuốc đáp: Phải tìm cho được một người từ khi sinh ra cho đến ngày nay luôn đầy lòng từ bi, thương xót tất cả chúng sinh và chưa bao giờ khởi tâm sân hận, sẽ dùng máu của người ấy hòa với thuốc để uống, móc hai tròng con mắt của người ấy để trừ quỷ, thì các chứng bệnh mới hết được.

Nhà Vua bảo: Con người từ khi mới sinh cho đến hôm nay chưa từng sinh tâm sân hận, đây là việc khó có, việc này thật khó vô cùng, có lẽ không thể nào tìm được đâu!

Thái Tử nghe lời nói như vậy, liền tâu Phụ Vương: Việc này dễ thôi, không có gì là khó cả!

Con là con của Phụ Vương, từ khi sinh ra cho đến ngày nay chưa từng khởi tâm sân hận và cũng không hề có tâm độc ác đối với tất cả mọi người, luôn đem lòng từ bi thương xót tất cả chúng sinh, từ trước tới giờ chưa có một niệm ác. Thân con vô thường không có gì bền chắc, chẳng bao lâu rồi cũng dẫn đến cái chết. Cúi xin Đại Vương đồng ý đem thân con làm thuốc để trừ bệnh cho chúng sinh.

Vua cha liền than: Ta không có con cái, đi cầu thần linh nơi các đền thờ thần mặt trời, mặt trăng, thần tinh tú, năm đỉnh núi cao, bốn quả núi lớn, do đó mới sinh được con. Ta nay dầu bỏ thân mất nước, nhất định không chịu theo ý con được.

Thái Tử lại nài nỉ Phụ Vương: Con nay cầu Phật Đạo, đem máu bố thí cho chúng sinh, nguyện đem công đức này để hiểu rõ tất cả Kinh Điển của Như Lai. Con nay đem.

Nhục nhãn này bố thí cho chúng sinh, nguyện đem công đức ấy để được con mắt trí tuệ của Như Lai, con sẽ vì tất cả chúng sinh nguyện làm bậc Đạo sư chân chánh. Đại Vương tuy không còn Thái Tử mà vẫn được làm Vua.

Giả sử Quốc Độ này không có muôn dân thì Phụ Vương làm Vua với ai?

Còn như tất cả dân chúng được lành bệnh, Phụ Vương tất sẽ trút khỏi nỗi ưu sầu.

Nhà Vua lại buồn khóc nói với Thái Tử: ta nay thà bỏ ngôi Vua chứ đứa con đáng yêu quý này thật không thể bỏ.

Thái Tử lại quỳ mọp, chắp tay thưa: Con nay dốc cầu đạo quả Vô Thượng chánh chân. Nếu như luyến tiếc cái thân nhơ nhớp hôi thối này, thì làm sao tỏ ngộ được giáo pháp cao sâu vi diệu trí tuệ của Như Lai! Làm sao có thể đạt được tất cả tuệ nhãn! Cúi xin Phụ Vương chớ khước từ tâm cầu đạo vô thượng của con.

Phụ Vương im lặng không nói một lời.

Ông thầy thuốc liền tâu: Thần thử lấy một ít máu hòa với thuốc đem cho các bệnh nhân uống, nếu lành bệnh rồi mới móc mắt. Nếu chẳng lành thì chẳng nên móc mắt.

Khi ấy, Thái Tử tự tay chích máu nơi cánh tay mình và phát lời thệ nguyện: ta dùng máu này quyết trừ bệnh cho chúng sinh, nguyện đem công đức này để thành tựu đạo quả vô thượng chánh chân. Nếu quả thật ta sẽ thành Phật Đạo, thì tất cả chúng sinh uống thuốc này bệnh sẽ được diệt trừ.

Tên thầy thuốc liền đem máu hòa với thuốc cho các bệnh nhân uống, tất cả đều được lành khỏi.

Thầ thuốc lại tâu với Đại Vương: Bất cứ bệnh nhân nào uống thuốc này đều được lành mạnh.

Đại Vương thấy việc rõ ràng trước mắt, có thể không tin sao?

Bấy giờ, tám vạn bốn ngàn chư hầu cùng thần dân cả Cõi Diêm Phù Đề, nghe Thái Tử của Đại Vương vì lòng từ bi nhằm cứu giúp tất cả muôn dân mà móc hai tròng mắt, không một ai là không buồn khóc, nên tất cả đều tập hợp trước mặt Thái Tử.

Quỳ mọp chắp tay thưa: Cúi mong Thái Tử của Đại Vương, suy xét, chúng tôi thà tự xả bỏ thân mạng, chẳng nỡ để Thái Tử hủy hoại hai mắt. Lòng từ bi thương xót chúng sinh của Thái Tử cũng đủ công đức để chẳng bao lâu sẽ thành Phật, mong Thái Tử chớ hủy hoại hai mắt.

Thái Tử liền dùng lời an ủi tất cả chư hầu và thần dân: Ta nay đem máu thịt, cho đến hai con mắt này để quyết trừ bệnh cho chúng sinh, nguyện đem công đức này cầu thành Phật Đạo. Khi ta thành Phật sẽ quyết trừ tâm bệnh, thân bệnh cho các vị, chớ nên cản ngăn tâm vô thượng đạo của ta.

Chư hầu cùng tất cả thần dân nghe Thái Tử nói lời quả quyết như vậy, đều đứng lặng thinh.

Thái Tử bèn sai quan hầu cận đem dụng cụ để mình khoét mắt.

Thái Tử bảo quan hầu cận: Ai là người có thể khoét giùm mắt ta?

Quan tả hữu cùng dân chúng thảy đều từ chối, không đủ can đảm làm việc này.

Tên thầy thuốc với ganh tỵ với Thái Tử liền lên tiếng: Tôi có thể làm được.

Thái Tử hoan hỷ nói: ta rất sung sướng!

Rồi cầm dao đưa cho thầy thuốc và dặn: Khoét tròng con mắt và đặt vào trong lòng bàn tay ta đây.

Tên thầy thuốc liền khoét một tròng con mắt, đặt vào bàn tay Thái Tử.

Khi đó, Thái Tử lập nguyện: ta nay đem nhục nhãn này bố thí cho chúng sinh, chẳng cầu được làm Chuyển Luân Thánh Vương, chẳng cầu làm Ma Vương, chẳng cầu cảnh vui nơi năm dục sắc, thinh, hương, vị, xúc của Phạm Vương.

Nguyện đem công đức này cầu thành tựu đạo quả vô thượng chánh chân, để ta được đầy đủ mắt trí tuệ, vì vô lượng chúng sinh khắp mười phương làm Bậc Đại Y Vương, trừ diệt tâm bệnh, thân bệnh cho tất cả muôn loài, làm con mắt trí tuệ cho họ.

Thái Tử phát nguyện rồi, cầm tròng mắt đặt lên chiếc án kề bên.

Thái Tử nói tiếp: Đúng như sở nguyện của tâm ta, thì tất cả chúng sinh đều được lành bệnh.

Phụ Vương và mẫu hậu thấy cảnh như thế, liền ngã xỉu, chết giấc, giây lâu mới tỉnh. Chư hầu, thần dân đều cất tiếng kêu khóc thảm thiết cảm động đến đất trời, có người tự đánh đập vào thân mình, hoặc có người hôn mê, chết giấc.

Ngay lúc tên thầy thuốc cầm dao khoét tròng mắt của Thái Tử, thì khắp cõi tam thiên đại thiên chấn động dữ dội, tất cả Chư Thiên trong ba cõi đều giáng hạ, thấy Bồ Tát vì chúng sinh mà tự khoét mắt cùng chích máu mình, nên vô số Chư Thiên tất cả đều buồn khóc, nước mắt tuôn rơi như trận mưa lớn.

Trời Đế Thích bèn đến trước mặt Thái Tử thưa: Lòng từ bi của Thái Tử hôm nay, vì chúng sinh nên không tiếc thân mạng, khoét mắt lấy nhục nhãn. Sự đau khổ như vậy thật là khó làm.

Vậy Thái Tử đem việc làm công đức đó nhằm cầu nguyện những gì?

Phải chăng là cầu Thiên Đế, Ma Vương, Phạm Vương, Vương Tử hay cầu nguyện những gì khác chăng?

Thái Tử đáp: ta chẳng cầu ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương, Thiên Đế, Ma Vương, Phạm Vương, chẳng cầu cảnh vui nơi năm dục sắc, thanh, hương, vị, xúc trong ba cõi, chỉ đem công đức này cầu đạo quả vô thượng chánh chân.

Vì tất cả chúng sinh làm bậc Đại y vương, trừ tâm bệnh, thân bệnh cho tất cả muôn loài, làm con mắt trí tuệ dẫn dắt, để tất cả chúng sinh đều lìa tai họa sinh tử.

Trời Đế Thích cùng tất cả Chư Thiên đồng ca ngợi: Lành thay! Lành thay! Hết sức to lớn, khó có gì sánh bằng! Như sở nguyện ấy, chẳng bao lâu tất sẽ thành Phật.

Trời Đế Thích bèn lấy tròng mắt đặt lại nơi con mắt đã bị khoét, tức khắc mắt Thái Tử bình phục như xưa, lại sáng đẹp gấp bội lần con mắt cũ. Vô lượng Chư Thiên dùng hoa Trời rải trên người Thái Tử, không ai là không vui mừng. Phụ Vương, mẫu hậu, cùng thể nữ và các tiểu vương, thần dân đều vô cùng vui mừng, hớn hở.

Trời Đế Thích lại sai đại tướng quân Tỳ Ba Đan Ma đuổi các loài quỷ gây bệnh trở về tận biển cả. Mọi người bị bệnh đều khỏi. Trời Đế Thích liền mưa các thức ăn uống, kế đến mưa lúa gạo, rồi mưa y phục, rồi tiếp mưa bảy báu. Tất cả bệnh nhân đều được lành mạnh, mọi người no đủ, không ai bị đói khát, dân chúng vui mừng, quốc gia hưng thịnh.

Sau đó vài năm, Vua cha băng hà, Thái Tử lên ngôi Hoàng Đế ngự tại chánh cung, bảy thứ quý báu tự nhiên hiện đến, làm vị Chuyển Luân Thánh Vương trị vì bốn châu thiên hạ, không một ai là chẳng nhờ ân.

Công đức của việc làm ấy đời hiện tại đã được phước báo như vậy.

Đức Phật bảo các vị Tỳ Kheo: Thái Tử Tự Tại Thiên lúc ấy là thân ta ngày nay, Phụ Vương Phạm Thiên nay là Phụ Vương Bạch Tịnh, mẫu hậu nay là mẫu hậu Ma Da, mẹ của ta, tên thầy thuốc khoét mắt ta nay là Điều Đạt, dân chúng Cõi Diêm Phù Đề thời đó là dân chúng hai nước Tỳ Xá Ly và Ma Kiệt Đà.

Ta lúc ấy cũng trừ hoạn nạn, bệnh tật, đói khát cho muôn dân. Ta nay cũng tận trừ tâm bệnh, thân bệnh cho chúng sinh, cũng khiến cho chúng sinh được mắt trí tuệ, lập nguyện, chứng đạo.

Bồ Tát làm việc bố thí siêng năng khổ nhọc hoàn toàn không chấp tướng như thế.

Bấy giờ, các vị Tỳ Kheo nghe lời Đức Phật dạy, đều hoan hỷ lễ Phật.

***