Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Bổn Hạnh

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT BẢN HẠNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Thiên Tức Tai, Đời Tống
 

PHẦN SÁU
 

Nghe như vậy!

Một thuở nọ Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ Đà Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá Vệ. Đức Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa Môn sắp vào thành khất thực.

Khi Đức Phật sắp vào thành, có năm trăm vị Trời phóng làn gió thơm thổi trên mặt các đại lộ và những đường hẻm trong thôn xóm, nên tất cả đều được sạch sẽ.

Những nơi bất tịnh, nhơ nhớp, phân uế hôi thối đều tự nhiên vùi lấp vào lòng đất, tất cả đường sá đều thoáng sạch. Năm trăm vị Trời tuôn mưa bằng những giọt nước thơm, nên mọi đường sá lớn nhỏ đều được thấm ướt, cùng tung rải các hoa trời.

Nhà Vua, thần dân thấy điềm lành này, biết là Đức Phật sắp đến, nên mọi người đều bỏ các công việc của mình đang làm, cùng nhau chạy nhanh đến nghênh đón Đức Thế Tôn.

Trong sốdân chúng đến diện kiến Đức Phật, có người quét đường, có người rải hoa, có người xông hương, có người cởi áo trải nơi đất, có người xõa tóc trải trên mặt đường, mong Đức Phật giẫm trên đó mà đi qua.

Có người đem thân nằm rạp trên đất mong được Đức Phật bước qua trên thân mình, có người cầm phướn lọng, có người trỗi nhạc. Mọi người đều chắp tay, nhứt tâm thanh tịnh chiêm ngưỡng Đức Như Lai. Tất cả chúng sinh, mỗi người đều đem mỗi thứ để cúng dường Đức Thế Tôn.

Khi ấy có một người dòng Bà La Môn quá nghèo, không có hoa hương để cúng dường Đức Điều Ngự, tự lấy làm buồn, dù đã nghĩ đủ cả trăm phương, chỉ còn một việc là nhứt tâm tịnh ý chiêm ngưỡng mà thôi!

Liền thể hiện rõ oai nghi nghiêm chỉnh, chí tâm cung kính, với tấm lòng phấn khởi, chắp tay đứng yên chiêm ngưỡng tôn nhan Như Lai và dùng kệ tán thán Đức Phật:

Tôn nhan ánh vàng rực

Ba hai tướng tốt hiện

Tất cả hàng chúng sinh

Thấy Ngài đều tán thán.

Thấy Phật tâm hoan hỷ

Ưu sầu liền dứt sạch

Vượt qua biển sinh tử

Cúi đầu lễ Từ Tôn.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn nở nụ cười hân hoan, hào quang năm sắc từ kim khẩu phóng ra hàng trăm ngàn sự kỳ diệu. Mỗi đạo hào quang có vô số tia sáng. Trên mỗi tia sáng có hoa sen bằng bảy báu. Trên mỗi hoa sen có Hóa Phật xuất hiện.

Ánh sáng tỏa khắp mười phương, dưới đến các địa ngục lớn, trên thì đến Cõi Trời Ba Mươi Ba, chiếu khắp các chỗ tối tăm trong năm đường, tận cùng các cảnh giới Phật, không một nơi nào là không sáng tỏ.

Chư Thiên, dân chúng trong đại thiên Thế Giới thấy được hào quang của Phật không ai là không vui mừng hớn hở, đều xả bỏ mọi thứ dục lạc, rời cung điện, cùng nhau hướng về chỗ Đức Phật đang ngự, nghe Phật thuyết pháp mà được độ thoát.

Có người thấy được hào quang mà được độ thoát. Hoặc có người nghe Hóa Phật thuyết pháp mà được giải thoát. Hoặc có người thấy ánh hào quang tìm đến chỗ Đức Phật ngự mà được độ thoát.

Cánh khảo tra trong vô lượng địa ngục đều được dừng nghỉ, các chúng sinh ở đấy sau khi mạng chung đều được sinh về Cõi Phật.

Tất cả cầm thú trong cảnh giới súc sinh, tâm lành được khai phát, dùng tâm từ đối xử với nhau, không còn mang tâm sát hại, sau khi mạng chung cũng được sinh về Cõi Trời.

Trong cảnh Iigạ quỷ, tự nhiên được thức ăn trăm vị, không còn một ai lo nghĩ về sự đói khát, nên đều vui mừng hớn hở, lại không có tâm bỏn sẻn, sau khi mạng chung đều được sinh lên Cõi Trời.

Vô lượng chúng sinh bị mù thì lại được thấy. Kẻ điếc thì được nghe, kẻ câm thì nói được. Kẻ tay bị cong vẹo thì co duỗi tự nhiên. Kẻ chân què thì đi được. Người tàn tật, mắc trăm bệnh đều được lành. Tất cả cảnh giam cầm, trói buộc trong địa ngục đều được thả ra.

Tất cả đại chúng, Chư Thiên, muôn dân trong cõi đại thiên lúc ấy không ai là không hoan hỷ, tâm được thanh tịnh không dấy khởi tham, sân, si.

Trong sốnày có người sinh về Cõi Trời, có người chứng quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật, hoặc có người phát tâm cầu đạo quả vô thượng chánh chân, hoặc có người kiên trụ nơi pháp bất thoái chuyển…, số người chứng quả như vậy không thể kể xiết.

Hào quang của Đức Thế Tôn chiếu khắp mười phương Thế Giới, lại quay về, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi nhập vào khoảng giữa hai hàng lông mày.

Khi ấy, Tôn Giả A Nan sửa lại y phục, thể hiện oai nghi, quỳ trước Đức Phật chắp tay, bạch: Nụ cười hôm nay của Đức Thế Tôn ắt phải có nguyên do, cúi xin Đức Thế Tôn nói rõ nguyên do ấy.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Tôn Giả, ông có thấy vị Bà La Môn ấy chăng?

Tôn Giả A Nan đáp: Bạch Đức Thế Tôn, dạ vâng, con có thấy.

Đức Phật bảo: Người Bà La Môn này dùng tâm thanh tịnh, làm một bài kệ khen ngợi Phật, nên từ nay cho đến mười ba kiếp về sau, bất cứ sinh vào Cõi Trời hay cõi người đều được giàu có tự nhiên, thân hình đoan nghiêm, có trí tuệ và tài biện luận, được mọi người ca ngợi, chẳng đọa vào ba đường ác và tám nạn, về sau sẽ thành Bích Chi Phật tên là Hoan Duyệt.

Tất cả chúng hội nghe lời Đức Phật nói, ai nấy đều sinh tâm hoan hỷ, ca ngợi công đức của Như Lai.

Tôn Giả A Nan bạch Phật: Công đức của Như Lai thật không thể nghĩ bàn, một bài kệ ca ngợi Đức Phật của Bà La Môn ấy đã đạt được công đức không thể lường tính. Công đức của Như Lai thật vô cùng to lớn.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Bà La Môn ấy chẳng phải chỉ mỗi đời nay ca ngợi ta mà được thiện lợi như vậy.

Trong thời quá khứ xa xưa, Vua nước Ba La Nại tên là Bà Ma Đạt Đa.

Khi nhà Vua đi săn bắn, các binh chủng: Tượng binh, mã binh, xa binh… đều theo nhau mở đường và hộ tống. Săn bắn trong núi được một con voi trắng, thân voi trắng như tuyết, làn da mịn đẹp, dễ thương, mà lại có sáu ngà.

Nhà Vua được bạch tượng lòng rất sung sướng, liền giao cho người dạy voi để luyện tập điều khiển. Lúc ấy, người dạy voi dùng cùm xiềng voi với một cây gỗ lớn và khóa xiềng lại. Voi buồn khóc rơi lệ, trải qua bảy ngày không ăn uống.

Người dạy voi lo sợ voi này không ăn uống chẳng bao lâu sẽ chết, liền tâu lên nhà Vua: Bạch tượng săn được không chịu ăn uống, buồn khóc rơi lệ.

Nhà Vua nghe tâu liền đến xem voi.

Đại Vương hỏi voi: Tại sao ngươi không chịu ăn?

Voi nói tiếng người đáp lại: Tâm tôi lo sầu, cúi xin Đại Vương giải sầu cho tôi.

Đại Vương hỏi: Ngươi sầu lo những gì?

Bạch tượng nói: Tôi còn cha mẹ quá già yếu, đi lại không được, mà không có người nuôi dưỡng, chỉ có mỗi một mình tôi đi hái thức ăn và mang nước uống về cho cha mẹ. Nếu tôi cứ bị xiềng ở đây, thì cha mẹ không ai nuôi dưỡng, cả hai sẽ bị chết thôi.

Tôi nghĩ vậy mà buồn sầu. Tâu Đại Vương, nếu như Đại Vương có lòng từ bi, xin tha tôi về để nuôi dưỡng cha mẹ, đến ngày cha mẹ mãn phần, tôi sẽ trở lại cung phụng Đại Vương, chẳng dám trái lời hứa này.

Vua nghe bạch tượng nói, lòng buồn bã chẳng vui, liền khen ngợi: Ngươi tuy là súc sinh mà làm việc con người, ta tuy là con người mà làm việc như súc sinh.

Nhà Vua bèn quỳ xuống mở xiềng, ra lệnh cho voi đi.

Bạch tượng trở về nuôi dưỡng cha mẹ suốt mười hai năm, khi cha mẹ mãn phần, liền trở lại cung Vua.

Nhà Vua thấy bạch tượng trở lại, lòng càng thêm hoan hỷ, lấy Anh Lạc, bảy báu trang sức cho bạch tượng. Khi Đại Vương sắp ra đi thì bạch tượng dẫn đường, nên nhà Vua yêu bạch tượng còn hơn Thái Tử. Trong bầy voi của nhà Vua, bạch tượng là con voi có quá trình đặc biệt nhất, nên đặt tên là Tượng Phan.

Bấy giờ, có một Bà La Môn nghèo cùng, muốn đến nhà Vua xin bố thí, lại hỏi mọi người: Làm thế nào để nhà Vua cho nhiều của cải?

Có người bảo: Nhà Vua có con bạch tượng hết sức yêu quý, nếu ông có thể ca ngợi bạch tượng ấy, mới có thể xin được nhiều của cải.

Bà La Môn liền theo dõi, đợi khi nhà Vua đi ra, đứng sẵn bên vệ đường, cất tiếng khen ngợi bạch tượng:

Thân ngươi đẹp vô cùng

Giống như voi Đế Thích

Đầy đủ sắc tướng voi

Phước đức cao vòi vọi.

Màu sắc không ai bằng

Giống như làn tuyết trắng

Hình dung khó bì kịp

Đặc biệt khó nghĩ lường.

Quốc vương nghe kệ ca ngợi bạch tượng, lòng rất đỗi vui mừng, liền thưởng cho Bà La Môn năm trăm tiền vàng. Bà La Môn trở nên giàu có.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Tượng Phan thời đó là thân ta ngày nay. Bà La Môn kia nay là người Bà La Môn này. Khi ấy, Bà La Môn khen ngợi ta, được lợi ích và nhờ ta giúp cho khỏi cảnh nghèo cùng. Nay ta thành Phật, mà Bà La Môn lại tán thán ta nên được phước báo không thể lượng tính, vì nhân duyên này, được ta cứu vớt thoát nạn sinh tử.

Tôn Giả A Nan bèn ở trước Phật, quỳ mọp bạch: Như có người dùng bài kệ bốn câu tán thán Đức Như Lai, sẽ được phước báo về công đức như thê nào?

Đức Phật nói: Giả sử có trăm, ngàn, vạn, ức, vô số chúng sinh đều được thân người, đều thành tựu đạo quả Bích Chi Phật.

Ví như có người cúng dường: Áo mền, thực phẩm, thuốc men, giường nằm, chăn nệm.

Cho những Bích Chi Phật ấy trong một trăm năm, thì người này có công đức nhiều chăng?

Tôn Giả A Nan đáp: Rất nhiều! Rất nhiều! Không thể nào tính toán được!

Đức Phật lại nói: Nếu có người dùng bài kệ bốn câu, đem tâm hoan hỷ ca ngợi Đức Như Lai, thì được công đức hơn phước đức của người cúng dường những vị Bích Chi Phật kia gấp trăm ngàn vạn lần, gấp ức ức vô số lần không thể dùng ví dụ.

Tôn Giả A Nan và tất cả đại chúng nghe lời Đức Phật dạy, đều hết sức vui mừng, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đầu mặt sát đất đảnh lễ.

***