Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tam Muội Niệm Phật

PHẬT THUYẾT KINH

BỒ TÁT TAM MUỘI NIỆM PHẬT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đức Trực, Đời Lưu Tống
 

PHẨM MƯỜI

CHÁNH QUÁN
 

Bấy giờ, Bồ Tát Bất Không Kiến bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu Đại Bồ Tát muốn thành tựu tam muội Bồ Tát niệm Phật mà Chư Phật đã nói thì phải nên gần gũi tu tập những pháp nào?

Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Bất Không Kiến: Nếu các Bồ Tát muốn được tu tập tam muội niệm Phật mà Chư Phật đã nói, muốn được gần gũi Chư Phật Như Lai, lại muốn mau đạt được Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác thì tâm phải quyết định an trụ.

Phải bỏ hẳn tâm không quyết định, bỏ tâm ngã kiến, tâm biết vô ngã, nên quán thân này như bọt nước tụ lại, quán sắc ấm như cây chuối, lần lượt quán thọ ấm như bọt nước trôi, quán tưởng ấm như ngọn lửa đang cháy, quán hành ấm như mây trên không, quán thức ấm giống như huyễn hóa.

Nếu Bồ Tát muốn nhập vào tam muội này thì phải nên sinh ý tưởng sợ hãi, lại phải đầy đủ tâm hổ thẹn, bỏ không sợ hãi mà tạo sợ hãi, bỏ không hổ thẹn mà tu tâm hổ thẹn, đầy đủ Xa Ma Tha chỉ, Tỳ Bà Xá Na quán, dùng trí phương tiện bỏ ngã và vô ngã, nên học trí giải thoát và pháp môn ba không, lại phải biết sinh khởi ba thọ, cũng nên lìa bỏ ba căn bất thiện.

Nên khởi tam muội chánh định tụ, quán các chúng sinh giống như thân ta, quán bốn niệm xứ gồm thân, thọ, tâm, pháp, quán hoạn nạn của bốn thực để tạo tưởng vô thực, đó là đoàn thực, xúc thực, ý thực, thức thực. Tu tưởng bất tịnh và dùng từ bi, an trụ nơi hỷ khiến xả đầy đủ, khởi lên các thiền định mà không tham đắm, cũng không hủy báng tất cả các pháp.

Thân này không thật, giống như ánh lửa huyễn, không thích sống lâu phải nên chán lìa, khéo phòng hộ tâm, tu tập đa văn, không khinh mạn chánh pháp, siêng năng bảo hộ, không bài bác liền được văn tài cho đến pháp tài.

Đã nghe pháp rồi, bảo vệ nghĩa ấy, tôn trọng Phật Pháp, cung kính Tăng Bảo, gần gũi thiện tri thức, xa lìa bạn ác, không tham đắm mùi vị ngôn luận của thế tục, thường không lìa hạnh A Lan Nhã, tâm thường bình đẳng, thương xót chúng sinh.

Tâm ấy không thoái chuyển, không ôm lòng ganh ghét, nêu lường các pháp tâm không nhiễm vướng, phân biệt hết thảy vô số pháp, thường cầu Kinh Điển đại thừa sâu xa, lòng tin kiên cố, không sinh nghi ngờ, thường siêng năng tinh tấn đọc tụng Kinh này tức là đạo vô thượng của Chư Phật, là chỗ sinh ra công đức của Chư Phật.

Tâm ấy nên chân thật như vậy, phải hàng phục kiêu mạn, hết lòng lắng nghe, thọ trì, tăng trưởng chánh pháp, phải lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, lười biếng, cao ngạo, tâm thị phi, phải xả bỏ các thuyết tà kiến hủy báng, giữ lấy chân ngã.

Trừ dứt lời nói dơ loạn, diệt mọi tranh luận, tâm phải thích an trụ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, phải đầy đủ các Ba la mật, có thể xả bỏ đầu, mắt, tâm vẫn không thoái lui, như tánh bốn đại không thể thay đổi.

Thân ý phải chuyên cần, không tiếc thân mạng, bốn sự cúng dường tâm không tham đắm, an trụ vào mười hai hạnh Đầu Đà, không cầu danh tiếng và quyền lợi cho mình, bỏ tâm thương ghét, được bốn thần túc, lìa bốn điên đảo và các thứ phiền não gai góc.

Vượt qua bốn dòng, đến bốn oai nghi, tu bốn niệm xứ khiến được năm căn, tu hành năm lực, xả bỏ năm kết, không cầu cái vui phước báo của năm dục, bỏ năm tâm nhơ, tu năm giải thoát, khéo biết năm ấm, bỏ sáu xứ dục và sáu thọ thân, trừ sáu ái thân, tu tập sáu niệm, biết sáu phần thức, siêng cầu sáu thần thông, tu bảy giác ý, hiểu sâu xa bảy cõi.

Đó là: Cõi hại, cõi giận, cõi xuất, Cõi Dục, Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc cho đến cõi diệt. Đoạn trừ bảy sử và bảy thức trụ, bỏ tám thứ lười biếng, trừ tám vọng ngữ, biết tám pháp thế gian, được tám sự giác ngộ của bậc Đại Nhân, biết tám giải thoát, tu tám chánh đạo, bỏ chín chỗ ở của chúng sinh, trừ chín pháp kiêu mạn, xua trừ chín não, gần gũi tu học chín pháp như hỷ.

Lại nữa, siêng học chín định thứ lớp, bỏ mười ác, hành mười thiện theo phương tiện siêng năng tinh tấn cầu đạt mười lực của Phật.

Lại nữa, này Bồ Tát Bất Không Kiến! Nay ta lược nói về tam muội đã được Chư Phật nói, phải nên siêng năng tu niệm để báo ân Phật. Học tam muội rồi, liền được Bất thoái chuyển nơi đạo quả Vô Thượng, Chánh Giác.

Như thế, Bồ Tát dùng sức của đại trí, có thể vì chúng sinh nói tam muội này. Ngoài ra, Thanh Văn không thể quan sát, tuyên nói, ghi chép, thọ trì, đọc tụng. Nếu ai có thể quan sát, ghi chép, thọ trì, đọc tụng thì phước nghiệp của người ấy cũng không luống uổng, cốt yếu sẽ được gặp Phật ra đời. Nếu có Bồ Tát giáo hóa, thọ trì thì mau đạt được Bất thoái nơi đạo.

Này Bồ Tát Bất Không Kiến! Chư Phật đã nói tam muội niệm Phật là pháp cốt yếu, các đại Thanh Văn không thể thực hành. Nếu người nào được nghe nói tam muội này thì đời vị lai sẽ được gặp Phật.

Lúc đó, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Nếu có tu tam muội

Chư Phật đã tuyên nói

Tâm quán pháp nối tiếp

Xả niệm không liên tục.

Khéo quan sát thân ấm

Lìa ngã, tưởng không ngã

Thân này không chắc chắn

Như bọt trên mặt nước.

Hư dối như huyễn hóa

Cũng trẻ con nhi nói

Quán sắc như mây trôi

Thấy thọ như bọt nổi.

Tưởng như ngọn lửa cháy

Quán hành ấm không thật

Giống như cây chuối kia

Quán năm thức như huyễn.

Sợ hãi tu hổ thẹn

Xá Ma, Tỳ Bà Na

Nên lìa không hổ thẹn

Trừ ngã, không ngã kiến.

Học tri kiến giải thoát

Và dùng ba không môn

Lại nên biết ba thọ

Xả bỏ ba căn ác.

Thường họ ba căn lành

Cầu tam muội tối thắng

Siêng hành giới, định, trí

Mau được định sâu xa.

Là tất cả tà kiến

Học tam muội chân chánh

Bỏ tranh luận thế gian

Thường tu pháp xuất thế.

Quan sát thân niệm xứ

Thọ, tâm cũng như vậy

Với pháp không nghi hoặc

Không lâu được định này.

Thường hành thiền giải thoát

Không tiếc thân, thọ mạng

Đa văn không cao ngạo

Không phỉ báng các pháp.

Nghe pháp nên thọ trì

Thọ rồi quan sát kỹ

Thường cúng dường chư

Phật Pháp, Tăng cũng như thế.

Với bạn lành tri thức

Luôn nghĩ báo ân họ

Lìa xa các bạn ác

Không nghe luận tà đạo.

Nên cầu khen người thiện

Thường cùng nhau du hóa

Không rời A Lan Nhã

Nên cầu thắng bồ đề.

Bình đẳng với quần sinh

Không hủy báng các pháp

Không nhiễm hết thảy pháp

Nên biết pháp chân thật.

Bỏ các hạnh phi pháp

Không lâu được định này

Trừ tất cả các ác

Vì thấy ngã chân thật.

Sát hại, mạn, dâm, đạo

Chê bai và biếng nhác

Miệng không tạo các ác

Tranh cãi các tà luận.

Nói pháp Phật thứ lớp

Nên cầu tam muội này

Thí, giới và nhẫn nhục

Tinh tấn, thiền, trí tuệ.

Thường siêng năng tu tập

Thành tựu các độ này

Không lâu sẽ đạt được

Công đức định pháp hạnh.

Nếu xả phần trong thân

Ngoài của cải, quyến thuộc

Không lâu được bồ đề

Tam muội tâm vắng lặng.

Nếu người tâm như đất

Nước, gió, lửa, hư không

Thảy đều sẽ mau chóng

Được tam muội vi diệu.

Nếu có tất cả người

Thân tâm luôn ngay thẳng

Không tham đắm cơm áo

Giường nệm và thuốc thang.

Người ấy sẽ mau đắc

Pháp tam muội như thế

Thành tựu bốn chánh cần

Đầy đủ bốn Như ý.

Xả bỏ bốn điên đảo

Bốn phiền não gai góc

Cầu vượt khỏi bốn dòng

Xả bỏ mọi ái thủ.

Tu hành năm căn, lực

Đoạn trừ năm kết sử

Không cầu quả năm dục

Tâm xả mọi phiền não.

Nên tu năm giải thoát

Và năm thân tam muội

Biết thật pháp năm ấm

Tu tập sáu hòa kính.

Xa lìa không cung kính

Trừ bỏ sáu xúc thân

Quán sáu thọ liên tục

Bỏ sáu ái thân kia.

Thành tựu sáu thần thông

Dốc tu sáu niệm xứ

Cũng lại siêng thực hành

Pháp phần của sáu thức.

Tu bảy bồ đề phần

Lại hành bảy Thánh tài

Nghĩ bỏ nơi kiêu mạn

Đoạn trừ bảy kết sử.

Nếu tu hạnh như vậy

Để cầu thắng tam muội

Loại bỏ bảy thức kia

Trừ tám vọng ngữ này.

Thường tu tám Thánh Đạo

Đạt tam muội không khó.

Được tám giác đại nhân

Hành tám môn giải thoát.

Biết tám pháp thế gian

Tức vì trí tối thắng

Thường tu hành như vậy

Đạt tam muội không khó.

Tự lìa chín phiền não

Cũng không não hại người

Tu chín pháp hỷ, xả

Rồi sẽ được tam muội.

Thông tuệ bỏ mười ác

Tu hành mười nghiệp lành

Lại tuân theo mười lực

Được tam muội không khó.

Thường thọ trì pháp lành

Xả bỏ các pháp ác

Ngày đêm thâu giữ tâm

Được tam muội không khó.

Trụ tam muội này rồi

Sức nói không nghĩ bàn

Thường thấy Phật sắc vàng

Cũng được nghe nói pháp.

Nếu muốn thấy mười phương

Phật hiện tại diệt độ

Cho đến đời vị lai

Tạo lợi ích chúng sinh.

Người ấy nên tu tập

Tam Muội tối thượng diệu.

Bấy giờ, Đại Bồ Tát Bất Không Kiến bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát nếu muốn thành tựu tất cả tam muội niệm Phật mà Chư Phật đã nói thì nên khiến tâm họ liên tục như thế nào?

Đức Phật bảo Bồ Tát Bất Không Kiến: Các Bồ Tát này nếu có thể chí tâm, nhớ nghĩ về quá khứ, hiện tại, vị lai, vô lượng hết thảy chư Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn trong mười phương thì đều biết về chúng sinh qua lại trong sinh tử.

Trụ thai mẹ đầy đủ, thuộc tộc họ hiền thiện tướng tốt, bốn Tỳ Xá La, từ, bi, hỷ, xả, hổ thẹn sợ hãi, oai nghi các hạnh thảy đều đầy đủ các pháp Xa Ma Tha, Tỳ Bà Xá Na, giải thoát tri kiến, các môn giải thoát, niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, giác đạo đều biết đầy đủ, biết bốn dòng sinh tử đầy đủ, cũng biết đầy đủ nguồn cội của chúng sinh, sinh sáu thần thông, khởi đại thần túc.

Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến đều đầy đủ, giải thoát vô ngại, lợi ích vô ngại, tất cả pháp lành cũng đều đầy đủ. Sắc tâm thanh tịnh, cảnh trí thanh tịnh, đầy đủ những thân kim sắc thanh tịnh.

Nhưng Bồ Tát này lại nghĩ: Chư Phật Như Lai chí tâm bất động, cũng nên an trụ nơi tâm không chấp trước.

Lại nên quán tâm liên tục như vậy: Những pháp gì là Như Lai?

Sắc là Như Lai phải chăng?

Hay Như Lai không phải là sắc?

Nếu cho sắc là Như Lai thì sắc xứ nơi chúng sinh đầy đủ là sắc ấm, như vậy thì chúng sinh nên là Như Lai?

Nếu cho khác với sắc là Như Lai thì ngoài mười hai duyên lẽ nào có Như Lai.

Lại cho thọ là Như Lai chăng?

Hay không phải thọ là Như Lai?

Nếu cho thọ là Như Lai thì tất cả chúng sinh đầy đủ thọ ấm, như vậy chúng sinh nên là Như Lai?

Nếu cho không phải thọ là Như Lai thì ngoài mười hai duyên làm gì có Như Lai. Tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Cho nhãn căn là Như Lai chăng?

Hay không phải nhãn căn là Như Lai?

Nếu nhãn căn là Như Lai thì tất cả chúng sinh nên là Như Lai. Nếu không phải nhãn căn là Như Lai thì ngoài mười hai duyên làm gì có Như Lai. Các căn như nhĩ cũng lại như vậy.

Cho bốn đại là Như Lai chăng?

Hay không phải bốn đại là Như Lai?

Nếu bốn đại là Như Lai thì bốn đại trong ngoài đều là Như Lai. Nếu lìa bốn đại là Như Lai thì ngoài mười hai duyên làm gì có Như Lai. Địa, thủy, hỏa, phong cũng lại như vậy.

Bồ Tát quán liên tục như vậy rồi, mới thấy rõ sắc ấm chẳng phải là Như Lai, khác với sắc ấm cũng chẳng phải là Như Lai. Lại thấy thọ ấm chẳng phải là Như Lai, khác với thọ ấm cũng chẳng phải là Như Lai.

Tưởng, hành, thức cũng chẳng phải là Như Lai, khác với tưởng, hành, thức cũng chẳng phải là Như Lai. Lại thấy nhãn căn chẳng phải là Như Lai, khác với nhãn căn cũng chẳng phải là Như Lai. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân chẳng phải là Như Lai, khác với nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng chẳng phải là Như Lai.

Thấy sắc, thanh chẳng phải là Như Lai, khác với sắc, thanh cũng không phải là Như Lai. Thấy hương, vị, xúc chẳng phải là Như Lai, khác với hương, vị xúc cũng chẳng phải là Như Lai. Thấy ý và pháp chẳng phải là Như Lai, khác với ý, pháp cũng chẳng phải là Như Lai. Thấy bốn đại chẳng phải là Như Lai, khác với bốn đại cũng chẳng phải là Như Lai.

Địa, thủy, hỏa, phong cũng lại như vậy. Bồ Tát quán tâm liên tục như vậy, đối với tất cả pháp sẽ đạt được trí phương tiện.

Này Bồ Tát Bất Không Kiến! Ông dùng pháp nào để có thể đạt được đạo bồ đề vô thượng?

Dùng thân để đạt được hay dùng tâm để đạt được?

Nếu dùng thân để đạt được thì thân này bất tịnh, không có hiểu biết, như cây, cỏ, ngói, đá. Bồ đề thì phi sắc, không có hình thể, tướng đó vắng lặng, là pháp không thể thấy.

Thân này đã như cây cỏ vô tri, làm sao đạt được đạo bồ đề?

Còn nếu dùng tâm để đạt được đạo vô thượng thì tâm không hình tướng, giống như huyễn hóa.

Bồ đề thì không tâm cũng không có hình sắc, tướng mạo như huyễn như hóa làm sao có thể đạt được?

Nếu các Bồ Tát hiểu được như vậy thì chẳng phải thân có thể được bồ đề vô thượng, cũng chẳng phải tâm để được bồ đề vô thượng, cũng không lìa thân và lìa tâm để được đạo vô thượng.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ Tát Bất Không Kiến: Ông phải nên quán Đức Như Lai như vậy. Người quán như thế gọi là chánh quán.

Lại nữa, này Bồ Tát Bất Không Kiến! Bồ Tát quán pháp tương tục như vậy nhưng tâm không dao động. Bồ Tát phải nên hiểu sâu xa như vậy thì không thoái chuyển đối với pháp tam muội, lại thường xa lìa tâm không tương tục, tất sẽ mau đắc bồ đề vô thượng.

Lúc đó, Đức Thế Tôn liền nói, kệ:

Tâm, niệm tâm tương tục

Khứ, lai và hiện tại

Không lâu được thấy Phật

Hết thảy Đấng Phổ Nhãn.

Trụ đại oai lực Phật

Thương xót lợi thế gian

Nhớ nghĩ Hoa trong người

Công đức Đấng Điều Ngự.

Nghĩ sinh tử thuở xưa

Trụ thai mẹ tộc tánh

Tướng mạo đều đầy đủ

Không lâu sẽ thấy Phật.

Nghĩ Phật tám mươi tướng

Và nhân duyên đời trước

Thường hợp nghiệp tối thắng

Ý chánh niệm pháp lành.

Nghĩ sáu thần biến Phật

Thần thông đại tự tại

Giới, định, trí, giải thoát

Đều đã được thành tựu.

Vì sao Đấng Tối Thượng

Được quả vị vắng lặng

Niệm từ, bi, hỷ, xả

Đấng tối thượng thế gian.

Hổ thẹn, lực không sợ

Oai đức thầy thế gian

Nghĩ Xa Ma Tha Phật

Và Tỳ Bà Xá Na.

Lại nghĩ trí giải thoát

Cho đến ba không môn

Nghĩ đủ bốn chánh cần

Thần túc cũng như thế.

Nghĩ đầy đủ căn, lực

Cho đến bồ đề phần

Nghĩ Phật lìa sinh diệt

Được nơi vắng lặng này.

Niệm pháp thiện khó bàn

Sắc, thọ đều thanh tịnh

Cho đến tưởng, hành, thức

Cũng thanh tịnh như vậy.

Nghĩ Phật sắc vàng ròng

Tâm an trụ không đắm

Quán pháp nào là Phật?

Thâu giữ tâm tương tục.

Sắc chẳng phải Như Lai

Bốn ấm cũng như thế

Lìa ấm chẳng Như Lai

Biết tưởng, thức cũng vậy.

Nhãn chẳng phải Như Lai

Nhĩ và pháp cũng thế

Lìa nhãn chẳng Như Lai

Pháp năm tình đều vậy.

Nghĩ mười hai nhân duyên

Điều tâm được thấy Phật

Bốn đại chẳng phải Phật

Khác bốn đại cũng vậy.

Nên rõ mười hai duyên

Thấy Phật chẳng là khó

Nếu cho ấm là Phật

Thì Đức Như Lai ấy.

Chúng sinh đều có ấm

Cũng tức là Như Lai

Nếu muốn được căn, lực

Nên niệm mười hai duyên.

Ấm chẳng thầy thế gian

Khác ấm cũng như vậy

Các nhân duyên thuở xưa

Thường phân biệt tương tục.

Vì có thể thâu giữ

Trí lực không nghĩ bàn

Thân này thường không biết

Như cây, cỏ,ngói, đá.

Bồ đề không hình sắc

Vắng lặng thường không sinh

Thân không chạm bồ đề

Bồ đề không chạm thân.

Tâm không chạm bồ đề

Bồ đề không chạm tâm

Mà có tướng xúc chạm

Thật là chẳng nghĩ bàn.

Đây là Phật Thế Tôn

Chỗ vắng lặng tối thắng

Khéo trừ diệt tất cả

Mọi tà kiến ngoại đạo.

Bấy giờ, Đại Bồ Tát Bất Không Kiến bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát làm sao có thể biết được biết được ngã kiến, lại lìa được kiến ấy như thế nào?

Đức Phật bảo Bồ Tát Bất Không Kiến: Nếu Bồ Tát muốn xả bỏ ngã kiến thì chớ đắm chấp nơi trụ xứ, nên nương tựa chỗ không nương tựa, muốn dùng pháp sáng tạo lợi ích cho tất cả.

Muốn thổi loa pháp, đánh rống đại pháp, muốn tạo thuyền pháp, kiến lập cầu pháp, đưa các chúng sinh vượt qua dòng chảy sinh tử, muốn quán thân tướng và không tương tục, thân này đầy bất tịnh, cấu uế, xấu ác, máu mủ đờm dãi thường bài tiết nơi chín lỗ, vô thường hư hoại, chốc lát không, mỏng manh khó tin, không thể yêu thích?

Giống như trẻ con, nói hư vọng không biết, thân này không thật, như bọt nước tụ lại.

Giả sử có dùng y phục, đồ ăn thức uống, xông ướp mùi thơm, trang sức các loại châu báu, với trăm ngàn năm xuôi theo tâm ý rồi cũng hoại diệt, vô ích trong sinh tử, như tánh thân này là pháp sinh tử, lại là chỗ ăn uống của loài trùng thú. Đối với nhiều kiếp hoặc ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chỗ Diêm La Vương chịu vô lượng khổ chưa từng dừng nghỉ.

Lại còn ở nhiều kiếp trong sinh tử làm tôi tớ cho kẻ khác sai khiến dụ. Thân này luôn phải chịu các khổ não mà trước đây không thể biết về khổ, để đoạn trừ tập, chứng đắc diệt, tu trì đạo, hành các công đức. Thân này tuy nhỏ nhưng chứa rất nhiều ô uế, nên dùng thân này thí cho các chúng sinh.

Nếu ai tiếc thân mạng thì đem thân mạng cho họ. Nếu người cần sức thì đưa sức cho họ, cần thịt cho thịt, cần máu cho máu, phải nên cho hết mà không mong cầu đền đáp, hoặc đối với người kia không được lợi ích, nguyện dùng nhân duyên của tâm thiện mà xả thân, trừ ngã kiến hoặc hiểu được vô ngã, an trú nơi sự xả thân mà tư duy quan sát.

Lại không tham chấp nơi hoặc của ngã kiến. Đem thân không bền chắc để tu thân chắc chắn.

Lại nữa, này Bồ Tát Bất Không Kiến! Ví như nơi thôn ấp có nhiều trẻ con cùng nhau ra khỏi thôn vui chơi nô đùa gần bên dòng sông, thấy bọt tụ, các trẻ con này tranh giành đùa giỡn mà đống bọt nước ấy chẳng tự hay biết, bị người khác lấy làm trò đùa cũng không thọ nhận.

Như vậy, này Bồ Tát Bất Không Kiến! Nếu có Bồ Tát tự quán thân mình, nên biết tâm ấy giống như đống bọt nước kia, không có phân biệt. Nếu Bồ Tát nào quán như vậy thì không lâu sẽ đạt được tam muội sâu xa này, cũng mau đắc đạo bồ đề vô thượng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Muốn cầu định tối thắng

Đạt bồ đề khó bàn

Quyết xả bỏ ngã kiến

Thường nên quán thân này.

Vô thường, khổ, bất tịnh

Mùi đờm dãi dơ bẩn

Bài tiết nơi chín lỗ

Thật rất đáng nhàm chán.

Hư dối không chân thật

Đây là pháp biến diệt

Mê hoặc như huyễn hóa

Cũng như đống bọt nước.

Thân ta rất mỏng manh

Nơi chốn của ung nhọt

Mùi độc đều hiện khắp

Không một chỗ đáng ưa.

Lo nuôi dưỡng vô ích

Bị trùng sói ăn thịt

Tất cả mọi thú vui

Cung cấp cho thân này.

Đều quy về hoại diệt

Trọn không có chân thật

Mãi mãi vô biên kiếp

Khổ thọ luôn vạn nẻo.

Quả địa ngục, súc sinh

Chỗ căn bản thọ khổ

Nhiều kiếp thêm đói khát

Không thể nghĩ bàn được.

Bị các khổ bức bách

Đi ngược đạo bồ đề

Thân ta đây không thật

Nên cho các chúng sinh.

Hiểu pháp, tâm không tiếc

Cấp những thứ cần dùng

Suy nghĩ thế này rồi

Liền xướng lời như vậy:

Nay ta xả thân này

Máu, thịt tùy ý lấy

Nếu ai tiếc thân mạng

Ta sẽ cho thân mạng.

Xả thân giúp chúng sinh

Sẽ mau được tam muội

Phần phần cầu bọt nước

Chưa từng được chắc thật.

Thân ta cũng như vậy

Cầu thật không thể được

Nếu đạt chánh quán này

Mau đắc đạo bồ đề.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền mỉm cười. Thường pháp của Chư Phật Như Lai đều như vậy.

Ngay khi Đức Thế Tôn mỉm cười, từ nơi khuôn mặt phóng ra ánh sáng đủ các loại màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, lục, pha lê, trên lên đến Trời Phạm Thiên, từ cõi ấy lại trở xuống, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi đến tụ nơi đảnh, trong khoảnh khắc thì ẩn mất.

Lúc đó, Trưởng Lão A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, gối phải sát đất, chắp tay hướng về Đức Phật, dùng kệ thưa hỏi:

Đấng Điều Ngự tối thắng

Mỉm cười có nhân duyên

Thầy thế gian vô thượng

Xin vì con tuyên nói.

Là vì nhân duyên gì

Hiện ra mỉm cười này?

Sắc vàng trăm phước nghiêm

Khéo hiểu rõ chân đế.

Thương xót, lợi ích người

Chỗ thế gian quay về

Là vì nhân duyên gì

Hiện ra mỉm cười này?

Nhân Trung Tôn hơn hết

Bậc tối thượng không lỗi

Các công đức Như Lai

Vi diệu không tỳ vết.

Lại vì nhân duyên gì

Hiện ra mỉm cười này?

Đấng Thánh trụ đại bi

Tất cả đều quy hướng.

Đã lìa mọi phiền não

Điều Ngự dùng tâm tịnh

Cúi xin vì con nói

Nhân duyên gì mỉm cười?

Hôm nay ai sẽ được

Nghĩa lý sâu xa này

An trụ địa kiên cố

Ai sẽ gặp an lành.

Chỗ quay về thế gian

Vì sao hiện mỉm cười?

Tất cả nẻo quy hướng

Điều Ngự vì con nói.

Nguyện nghe người thanh tịnh

Nhân duyên khiến mỉm cười

Mong nhờ Thánh khai diễn

Nghi hoặc sẽ đoạn trừ.

Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả A Nan: Khi ta vừa giảng nói pháp quán tương tục này, có ba vạn người đắc pháp nhãn thanh tịnh, tám vạn trăm ngàn ức Na do tha Chư Thiên đều lìa bỏ phiền não cấu uế, đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Lại có ba vạn ức Na do tha Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni chứng quả Bất Hoàn.

Lại có ba vạn ức Na do tha Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni và thanh tín sĩ, nữ đạt được nhẫn vô sinh, ba vạn chúng sinh phát tâm bồ đề thảy đều tu tập hạnh Bồ Tát, ở kiếp nhân tôn đều sẽ thành Phật, đây là mới phát tâm đạo vô thượng.

Lại có chín vạn ức Na do tha các chúng sinh đều được bất thoái chuyển nơi đạo bồ đề, sẽ được thành Phật hiệu là Phật Phóng Quang, Phật Ly Cấu Tôn Thích Ca Mâu Ni Nhật Quang Tướng, Phật Nguyệt Quang Minh và Phật Thiên Trung Tôn, chín mươi hai ức Na do tha chúng phát tâm Thanh Văn sẽ thành A La Hán.

Lúc Đức Thế Tôn nói như vậy thì âm thanh chấn động cả tam thiên đại thiên Thế Giới.

Đức Phật dùng thiên nhãn thấy rõ nơi chín mươi chín ức trăm ngàn Na do tha cõi nước của Chư Phật nơi mười phương, chúng sinh trong đó đều thấy Đức Như Lai phóng ra ánh sáng từ giữa chân mày, ánh sáng ấy tên là Minh diệm chiếu khắp mọi nơi chốn. Chúng sinh thấy rồi tâm sợ sệt, dựng chân lông.

Khi ấy, ở cõi nước với vô lượng trăm vạn ức Na do tha các chúng sinh những ai gặp được ánh sáng này, trong đó có người được quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, có nhiều chúng sinh phát tâm bồ đề đều được bất thoái chuyển nơi đạo bồ đề vô thượng, vào đời vị lai sẽ được thành Phật, đều cùng một hiệu là bất thoái chuyển.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa này, nên nói lại bằng kệ:

Ta vừa nói điều này

Khi quán tâm tương tục

Liền có sáu mươi ngàn

Chín mươi chín ức chúng.

Nhờ nghe pháp lợi ích

Mà phát tâm bồ đề

Lại có ba vạn người

Đều được tuệ nhãn Phật

Nghe rồi niệm tương tục

Bồ đề đó vắng lặng

Được thoát khỏi điều này

Nạn khổ của đường ác.

Tám vạn ức Chư Thiên

Đã nghe tiếng Như Lai

Đều được pháp nhãn tịnh

Lìa hẳn khổ cõi ác.

Ba vạn ức bốn chúng

Được pháp nhẫn bất khởi

Thoát khỏi các đường ác

Lại không còn khổ não.

Sẽ được thành Phật Đạo

Như mùa xuân tươi tốt

Ba vạn ức mọi người

Học nơi đạo bồ đề.

Người ấy cũng sẽ được

Đại oai lực Chư Phật

Đã thành đạo vô thượng

Thương xót ở thế gian.

Sáu vạn ngàn Thiên Tử

Tu học đạo bồ đề

Hạnh vui trong niềm vui

Giống như Đấng Di Lặc.

Nương thế gian vô ngại

Nên cười nhiều lợi ích

A Nan, ông nên biết

Đều là có nhân duyên.

Do đó ta hôm nay

Hiện bày mỉm cười này.

***