Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Bồ Tát Tòng đâu Thuật Thiên Hàng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ

PHẬT THUYẾT

KINH BỒ TÁT TÒNG ĐÂU

THUẬT THIÊN HÀNG THẦN MẪU

THAI THUYẾT QUẢNG PHỔ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

PHẨM MƯỜI BỐN

PHẨM HÀNH ĐỊNH BẤT ĐỊNH
 

Bấy giờ, trong hội có Bồ Tát tên là Thường Tiếu, đạt sáu thông, có oai đức và thần lực tự tại, biện tài vô úy, chấm dứt phần sanh tử, không còn chấp trước việc gì, những điều nói ra đều được tin dùng, hiểu rõ các pháp không, như huyễn hóa, như mộng, như sóng nắng, như lá đỏ trong nước mà loài thú ngu si cho là nước thịt, cuối cùng không lấy được, như tiếng vọng trong núi.

Hiểu rõ các pháp không sanh không diệt, muốn đoạn trừ tất cả sự nghi ngờ của chúng sanh, nên liền đứng dậy, trịch bày vai phải, gối phải sát đất, chấp tay thưa trước Phật: Cúi xin Thế Tôn, con có chút nghi ngờ. Nếu được cho phép con mới dám thưa. Trí tuệ của Đại Thánh Như Lai vô ngại, trước biết do nhân duyên quá khứ mà trói các hành, sau làm rõ nguyên lý thành bại và nhân duyên hợp tan của vị lai.

Hành nghiệp thiện ác là do phát tâm khác nhau. Nay con nghe Như Lai ở trong thai giáo hóa chúng sanh là các hành có sai khác, có đối không đối, có quả báo không có quả báo, có hành đen trắng, không có hành đen trắng.

Lại có chúng sanh từ khi mới phát tâm trải qua vô số kiếp mà không được thành tựu, hoặc có chúng sanh chỉ sáng phát tâm mà chiều liền thành Phật. Cúi xin Thế Tôn hãy nói cho, con rất muốn nghe.

Thế Tôn dạy Bồ Tát Thường Tiếu: Theo lý lẽ mà ông hỏi đều là do oai thần của Như Lai cảm vời ra. Muốn thành tựu các pháp thì không đoạn thật tánh của Như Lai, trước cũng như sau.

Vì sao?

Vì pháp tánh của Như Lai không thể nào nắm bắt, giữ gìn được, cũng chẳng phải phạm vi A La Hán, Bích Chi Phật biết được. Khi ấy, Thế Tôn dùng thần lực xuất ra tướng lưỡi rộng dài, ánh sáng tướng lưỡi chiếu A tăng kỳ kiếp Cõi Phật, tận cùng phương Đông, khiến cho chúng sanh năm đường thấy ánh sáng ấy tìm đến chỗ Như Lai.

Ngay giữa chặng mày, Thế Tôn lại xuất ánh sáng tướng lông trắng, trên chiếu tám mươi bốn ức hằng hà sa cõi chúng sanh.

Bấy giờ, Thế Tôn nói kệ cho Bồ Tát Thường Tiếu:

Ba mươi mốt âm vang

Nghiệp báo được trong sạch

Bốn mươi tám trần cấu

Trời hành năm mươi năm

Bồ Tát tóc bảy báu

Phát sanh tâm chúng sanh

Bốn loại cây đạo quả

Tâm thức định không loạn

Kẻ thiếu trí vô phước

Mắc khẩu nghiệp rất nhiều

Ăn uống biết vừa đủ

Đi đứng đúng oai nghi

Bình đẳng thương tất cả

Mới gọi đạo Bồ Tát

Đời năm trược ba cõi

Điên đảo vướng cõi ma

Phá hoại gốc nghiệp thiện

Như bóng không rời hình

Căn tánh có lanh chậm

Tới lui lòng do dự

Phát nguyện độ chúng sanh

Công đức trọn đầy đủ

Thành tựu thân mười lực

Thế tục pháp hữu vi

Tư duy khó lường được

Vừa chết lại tái sanh

Như lửa cháy núi rừng

Tâm niệm đốt chánh pháp

Lan đến A tăng kỳ

Thân mặc giáp thệ nguyện

Dõng mãnh độ kẻ dữ

Tiêu diệt chúng quân ma

Lỗ chân lông thân người

Hơn sáu mươi bốn vạn

Người trí huệ biết rõ

Các nghiệp báo nhỏ nhặt

Người lợi căn Diêm Phù

Thọ thân rất xấu xí

Từ mỗi lỗ chân lông

Rịn chảy không kín đáo

Thân Kim Cang Như Lai

Chân lông ba mươi bảy

Kín đáo không rịn chảy

Không bị lửa thiêu cháy

Ma và quyến thuộc ma

Sa Môn, Bà La Môn

Phạm Thiên và Chúng Thích

Thần lực bọn quỷ thần

Muốn đụng lông tóc Phật

Việc này không thể được

Hư không thành địa giới

Nhật nguyệt có thể rơi

Muốn đụng lông tóc Phật

Không thể nào làm được

Đây là nghiệp pháp tục

Chẳng phải tướng vô vi

Thọ hành chịu nghiệp quả

Các tướng đều khác nhau

Thân Phật thể Kim Cang

Ngoài hành theo báo nghiệp

Là quả báo thế tục

Lìa xa pháp vô vi

Tướng Phật Pháp chân thật

Không hiện ra bên ngoài

Muốn biết tướng trong Phật

Như dùng thần túc vậy.

Nói Kệ xong, Đức Thế Tôn dạy Bồ Tát Thường Tiếu:

Duyên báo duyên duyên báo

Chí đạo vô ngại báo

Tam bảo chân tánh báo

Hành thú Niết Bàn báo

Thế tục vô trước báo

Nhất hướng cứu cánh báo.

Đó là đệ nhất nghĩa của Đại Bồ Tát, không nhiễm, không chấp trước, không thể nắm bắt, không vướng vào Cõi Dục mà cũng không lìa Cõi Dục. Quá khứ có, vị lai có, hiện tại có.

Chẳng phải quá khứ có, chẳng phải vị lai có, chẳng phải hiện tại có, không sanh không diệt. Qua trăm ngàn kiếp, Đại Bồ Tát đã thông đạt, không còn chướng ngại, khiến cho mọi tầng lớp chúng sanh đều hiểu rõ cái không đó vốn có quả báo để thành tựu khẩu nghiệp, thông đạt cả âm thanh.

Hoặc có Đại Bồ Tát trong phút chốc có thể làm cho ba ngàn đại thiên thế giới hóa thành thủy giới, giống như Tỳ Kheo đắc thiền quán vô lượng thủy giới. Con trùng, rùa, ba ba trong thủy giới ấy không xúc chạm nhau. Do chứa công đức nhiều kiếp nên không hư không hoại. Đó gọi là Đại Bồ Tát nhập vào thủy giới tam muội.

Hoặc có chúng sanh thấy Bồ Tát nhập định cho là nước, rồi lấy gạch, ngói, đá, cây cỏ quăng vào. Bồ Tát nhập định, tâm như hư không, không biết có người đến xúc não. Đó là Đại Bồ Tát nhập vào lực của thủy giới.

Hoặc có Bồ Tát thiền định nhiếp tâm nhập vào hỏa giới tam muội, khiến cho ba ngàn đại thiên quốc độ này bùng cháy. Chúng sanh ngu si nói rằng Bồ Tát gặp lửa kiếp thiêu, chạy tán loạn nhưng không tránh được lửa. Mặc dù lửa cháy đỏ nhưng Bồ Tát thấy mát mẻ không nóng.

Đó là Đại Bồ Tát nhập vào hỏa quang tam muội. Oai thần của tam muội này không thể so lường. La Hán, Bích Chi Phật cũng không thể đạt được.

Hoặc có Bồ Tát nhập năm phần pháp thân, tâm định bất động, khiến ba ngàn đại thiên thế giới nào bò bay máy cựa cho đến trùng, kiến đều dùng oai thần tiếp đỡ chúng, nên chúng không gặp phiền não, bảy ngày được an ổn. Sau khi qua đời, tất cả đều sanh lên cõi Trời.

Trong một ngày nói pháp mà hóa có mặt khắp mọi nơi, trong đó người nào thấy thần đức của Như Lai thì trần cấu đều được trừ sạch, muốn gì được nấy, hoặc sanh vào Cõi Chư Phật ở phương khác. Đó là nhờ Đại Bồ Tát nhập năm phần pháp thân định tâm ban cho.

Có Bồ Tát nhập vào bất động sư tử phấn tấn tam muội, khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Chúng sanh trong đó đều quy phục, tu hành thanh tịnh, mặc áo tàm quý, bỏ tâm kiêu mạn, hướng dẫn chúng sanh đến tám con đường chân chánh, trừ khử bảy mươi bảy tâm chấp ngã.

Cấu nhiễm chất chứa lâu đời chỉ trong nhất thời đều trừ sạch cả. Đó là do Đại Bồ Tát nhập vào phấn tấn vô úy tam muội cảm vời ra.

Có Đại Bồ Tát nhập tán thân định ý, phân biệt thức tụ từ đâu đến và đi về đâu. Mỗi mỗi đều phân biệt rõ ràng là không, vô tịch nhiên. Trước sau giữa đều không có đầu mối. Đó là do Đại Bồ Tát nhập tán thân định ý tam muội mà cảm vời ra.

Có Đại Bồ Tát nhập nhẫn đảnh tam muội, có thể làm thân này biến thành con trùng không có chân tay đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới. Chúng sanh thấy chẳng biết đó là gì nên nói là đống thịt. Nếu ai lấy ăn thì mùi vị như Cam Lồ và đều làm no đủ cho chúng sanh bị đói khát. Đó là do Đại Bồ Tát nhập nhẫn đảnh tam muội mà cảm vời ra.

Có Bồ Tát dùng thần lực tam muội khiến núi sông, đá, vách trong ba ngàn đại thiên thế giới này hóa thành Cam Lồ, giống như đường phèn, ăn vào không biết ớn, khiến cho bốn chứng bệnh nặng kiết sử của chúng sanh vĩnh viễn lành hẳn không còn trở lại.

Chúng sanh phát nguyện: Nguyện muốn sanh về Thế Giới vô tận. Đó là nhờ thần lực của Đại Bồ Tát cảm vời ra.

Lại nữa, Đại Bồ Tát nhập vào Độc Bộ tam muội, làm cho tất cả chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới này thấy Bồ Tát đi cất bước chân, hạ chân xuống. Ai gặp Bồ Tát đi bộ thì có thể ngăn chặn người tội không còn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Đây đều do thân khẩu ý Bồ Tát thanh tịnh và phát nguyện cứu độ đạt đến nơi cứu cánh, không bao giờ quay trở lại. Đó là nhờ vô lượng tâm nguyện phước lành của Đại Bồ Tát cảm vời ra.

Lại nữa, Đại Bồ Tát dùng thần thông định nhập vào nhạo pháp tam muội, khiến cho các loài chúng sanh trong ba ngàn đại thiên thế giới này đều quay về, đến chỗ Bồ Tát để cầu xin xuất gia, tu phạm hạnh vô thượng, phát tâm giống nhau, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, theo thường pháp của Chư Phật về pháp oai nghi, cấm giới, giáo thọ thì có thể tức thời ở vào Minh Huệ Địa.

Minh Huệ địa là nơi hành pháp của Bồ Tát Bát Trụ, chẳng phải nơi nhị thừa tu tập. Đó gọi là nhờ thần lực của Đại Bồ Tát cảm vời ra.

Lại nữa, Đại Bồ Tát dùng đại bi của Phật nhập vào vô ngại định, khiến cho các loài quần manh trong ba ngàn đại thiên thế giới này cùng làm cha mẹ, anh em, bạn bè, dòng họ, tri thức, ai không có của cải thì cho của cải, cung cấp các vật cần dùng cho đến quốc thành, vợ con, voi ngựa, vàng bạc, trân bảo, xe cộ, mã não, bạch châu, hổ phách, thủy tinh, lưu ly, bích thạch, trân bảo lẫn lộn, y phục, thức ăn uống, giường mùng, chiếu chăn, thuốc thang, hương hoa, phấn xoa… đều cho họ sung túc.

Những người được sự giáo hóa trong đó đều đầy đủ, làm chúng sanh phát tâm ở trong địa nhạo pháp.

Sao gọi là địa nhạo pháp?

Nghĩa là ai hợp với đạo Tu Đà Hoàn thì có pháp chân thật cốt yếu để đoạn ba kiến pháp.

Ai hợp với đạo Tư Đà Hàm thì còn bảy đời nữa thành đạo.

Ai hợp với đạo A Na Hàm thì nói thiện pháp không có năm ấm che lấp.

Ai hợp với đạo A La Hán thì nói Niết Bàn thọ chứng không trở ngại.

Ai hợp với đạo Bồ Tát thì nói pháp lục độ đảnh nhẫn, phát tâm tiến lên.

Ai hướng đến Phật Đạo thì nói cứu cánh tịnh nhất thiết trí, trang nghiêm Phật Giáo chúng sanh.

Từ Cõi Phật này đến Cõi Phật khác cúng dường, lễ lạy, thờ phụng Chư Phật Thế Tôn, được đắc sáu thần thông:

Mắt có thể thấy thấu triệt.

Tai có thể nghe thông suốt

Tự biết đời trước

Biết tâm người khác.

Thân có thể bay.

Các trần cấu đều đoạn sạch, không còn nghi ngờ về Phật, Pháp, Tăng. Đó gọi là nhờ thần lực của Đại Bồ Tát nhập nhạo pháp tam muội mà cảm vời ra.

Có Đại Bồ Tát nhập vào Kim Cang tam muội, khiến cho ba ngàn đại thiên thế giới biến thành bảy báu, cứu giúp, ban bố cho người nghèo khổ. Ai xin thức uống cho thức uống, ai xin thức ăn cho thức ăn và rồi nói cho họ về quả báo của sự xan tham.

Hễ người nào xan tham thì chết đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nghèo khổ, áo không đủ che thân, bị người ghét bỏ, hoặc làm nô tỳ, làm người ở mướn, hoặc đọa làm súc sanh gánh vác mang nặng.

Bồ Tát nói cho họ về hạnh không dâm dục thì được sanh lên Trời. Dâm là ô uế, chết đọa vào đường ác như núi đao, rừng kiếm, xe lửa, lò than, địa ngục thiết chủy, địa ngục hắc thằng, địa ngục phất thỉ, núi băng, cối giã,… chịu vô lượng khổ.

Hoặc vào trong ngục hoa sen đỏ, gió thổi lửa đốt xương cốt phân ly. Trong đó Bồ Tát nói vô thường, thân không tồn tại lâu dài như đánh đá thấy lửa, như sấm sét qua trước mắt, huyễn hóa chẳng phải một thì vì sao chịu khổ, tinh thần suy sụp mà không mong cầu thoát khỏi.

Bồ Tát nói pháp chân thật cho họ như vậy để người tội đều được hết khổ. Đó gọi là nhờ Đại Bồ Tát dùng định ý đại bi tam muội của Phật mà cảm động đến.

Bấy giờ Thế Tôn nói kệ:

Chúng sanh muốn giải thoát

Cửa năm đường ba cõi

Tinh tấn không giải đãi

An trụ đạo vô vi

Như người xây nhà cửa

Không cây gỗ mà thành

Chủ yếu trước ban đất

Rồi dựng trụ, xây tường

Phật Đạo như hư không

Không do một hạnh thành

Giữ ý thật kiên cố

Ruộng tâm không quyến luyến

Hằng sa Phật quá khứ

Vị lai cũng không tận

Có vị lần lượt thành

Có vị được siêu việt

Ta dạy ngộ chưa ngộ

Khiến đến tám chánh đạo

Nghe rồi không thọ nữa

Pháp này do ai tạo

Xưa ta xả tưởng thân

Kiếp số không cho khó

Không thầy mà tự ngộ

Là Đạo Sư tất cả

Đạo Sư hiện ra đời

Không duyên, không thần thông

Cốt độ người chưa độ

Thị hiện thành vô vi.

Khi Thế Tôn nói kệ này xong, có năm mươi sáu ức hằng hà sa chúng sanh đoạn diệt vọng tưởng, không còn ưa thích nghiệp của thế tục và đồng thời phát nguyện cầu đạo vô thượng.

***