Kinh Đại thừa

Bộ Đại Tập

PHẬT THUYẾT

KINH CÂU CHỈ LA ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

 Pháp Hiền, Đời Tống
 

Như vậy tôi nghe!

Một thời Đức Phật ngự tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc thuộc nước Xá Vệ cùng vời chúng Đại Tỳ Kheo đến dự.

Lại có Trời, Người, A Tu La, Ca Lâu La… cùng đến hội tọa.

Bấy giờ Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan rằng: Ông hãy lắng nghe! Ta có Đà La Ni tên là Câu Chỉ La.

Đà La Ni này có uy đức lớn, hay làm cho tốt lành, hay phá sự chấp giữ của hàng Bộ Đa với nhóm ác diệu và hay trừ khỏi các bệnh: Trúng thực, nóng lạnh, đau đầu, đau nửa đầu, hói đầu, hen suyễn, cho đến bệnh trĩ, bạch lậu với mọi thứ mụn nhọt, rôm sẩy…

Này A Nan! đối với chúng sinh sắp chết cũng có thể làm cho sống lại. Do đó, ta vì ông mà diễn nói.

A Nan! Nếu có người nghe Đà La Ni này, phát tâm kiên cố đọc tụng thọ trì thì người đó sẽ gặt được vô lượng vô biên lợi ích tốt lành thiện lợi.

Lúc đó Đức Thế Tôn liền nói Đà La Ni là:

1. Đát nãnh tha.

2. Án. Ế lý mật lý.

3. Tức lý, di.

4. Phộc la, cổ kế lệ, thất lị, mạt để.

5. Côn noa lê.

6. Nông nạp tỳ.

7. Nông nạp tỳ.

8. Ấn nại la phộc nhật la nghĩ nễ.

9. Tát lị phộc phộc nhật la nghĩ nễ.

10. Một la hạ ma, sá lị, sa phộc hạ.

11. Dã tha cơ lỗ một đà.

12. Tát đỏa nẵng, vĩ la nga, thất lị sắt tra.

13. Tát lị phộc đạt lị ma noản.

14. Nga noa, bát la phộc la.

15. Thương già, tát tía phộc kế duệ na.

16. Yết nễ na tía phộc kế duệ na.

17.  Ma ma, tát lị phộc tát đỏa nẵng.

18. Yết tất đương.

19. Kha nễ đương.

20. A sá nễ đa nễ.

21. Tam miệu cổ đột khế na.

22. Ba lị noa mãng nga tha đổ, sa phộc hạ.

Đức Thế Tôn nói Đà La Ni này xong, liền bảo A Nan rằng: Đà La Ni này ở chốn nào thì ta chẳng thấy có tất cả hàng Phạm Ma, Sa Môn, Bà La Môn nào trong nhân gian hoặc trên Trời dám có hành động trái ngược. Ông nên thọ trì, vì người khác nói khiến cho nhiều người được lợi ích lớn.

Tôn Giả A Nan cùng với hàng Trời, Người, A Tu La, Càn Thát Bà… trong Hội nghe lời Phật nói đều vui vẻ tin nhận, làm lễ rồi lui ra.

***