Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp đại Hội Tập
PHẬT THUYẾT KINH
CHÁNH PHÁP ĐẠI HỘI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
PHẦN BỐN
Lành thay! Thưa Tiên Nhân
Bậc từ bi chân thật
Chúng Thiên Tử, Long Vương
Cùng với Vua Dạ Xoa
Tán thán như vậy xong
Lạy Tiên rồi, biến mất.
Bấy giờ Bồ Tát Phổ Dũng đứng trước Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói rõ về việc Đức Như Lai Liên Hoa Tạng khen ngợi công đức như vậy của chánh pháp đại tập hội xong, chắp tay cung kính bạch rằng: Thưa Thế Tôn! Nếu lại có người đối với chánh pháp này mà chỉ chắp tay cung kính, đảnh lễ thì sẽ được sự thiện lợi lớn như thế nào?
Đức Phật bảo Bồ Tát Phổ Dũng: Phước đức người ấy có được cũng vô lượng vô biên. Thí như Long Vương ở trong ao Vô Nhiệt Não. Nhưng cung điện ấy mặt Trời không chiếu đến. Tại đó có năm con sông lớn, nước ao chảy ra vô tận. Nếu như có người muốn biết số lượng giọt nước trong ao.
Ngươi cho rằng người ấy có thể biết được chăng?
Phổ Dũng bạch rằng: Không thể, Bạch Thế Tôn! Đức Phật nói: Chánh pháp đại tập hội này có các thiện căn to lớn không thể so sánh cũng lại như vậy.
Giả như có người muốn biết công đức hạn lượng của pháp này, đều trải qua hàng ngàn kiếp cũng không cùng tận.
Lại nữa, này Phổ Dũng! Pháp này sâu xa, khó hiểu khó biết. Tất cả các Đức Như Lai thảy đều tôn trọng. Nếu lại có ai chỉ thỉnh thọ trong khoảnh khắc, liền được sự lợi ích to lớn như vậy.
Bồ Tát Phổ Dũng lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Năm con sông lớn ấy tên là gì?
Đức Phật nói: Năm con sông lớn ấy tên là: Sông Căn Già, sông Tế Đa, sông Phạ Sô, sông Diêm Mâu Na, sông Tán Nại Ra Bà Nga. Đó là năm con sông lớn. Cứ mỗi con sông đều có năm trăm con sông nhỏ bao quanh. Nước của những con sông này chảy vào biển cả.
Năm con sông lớn ấy, cứ trong mỗi sông lại có một vị Đại Long Vương.
Tên những vị ấy là: Long Vương Hoan Hỷ, Long Vương Thượng Kha, Long Vương Phạ Hán Để, Long Vương Tức Đát Ra Tây Na, Long Vương Pháp Tư Duy. Những vị Long Vương như vậy đều có một ngàn quyến thuộc.
Khi ở Cõi Diêm Phù Đề thì đổ mưa ngọt ngào làm cho mầm mộng trăm thứ lúa đều được tươi tốt, cho đến núi sông khe suối, rừng rú, ao rãnh hoa quả cành lá gốc cây, mưa đều rưới khắp, không đâu không có.
Này Phổ Dũng! Nên biết rằng: Nếu có chúng sanh đối với chánh pháp này nói lời bất thiện, sanh tâm khinh chê, hủy báng, người ấy sẽ bị tội báo vô lượng vô biên.
Lại nữa, nếu có chúng sanh nào đối với chánh pháp này mà nói lời thiện ngữ tán thán, người ấy được phước cũng nhiều vô lượng vô biên. Người ấy liền có thể thân cận hiện hữu, được thấy Đức Như Lai. Nếu được thấy Phật liền được tiêu trừ tất cả tội chướng.
Này Phổ Dũng! Thí như trong bốn đại châu có Thiết Luân Vương làm Vua một châu, oai quyền tự tại, rộng lớn, khoái lạc, lại hay lợi ích tất cả nhân dân. Nay chánh pháp đại tập hội này cũng lại như vậy, ở trong Cõi Diêm Phù Đề làm lợi ích cho các chúng sanh.
Nếu ai không được nghe chánh pháp này thì người đó không thể thành tựu A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, không thể ngồi tòa sư tử, ở nơi Đạo Tràng Bồ Đề, chuyển đại pháp luân, đánh trống đại pháp, cũng lại không thể nhập vào cõi Niết Bàn, phóng ánh sáng lớn, chiếu khắp thế gian.
Bồ Tát Phổ Dũng lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Tại Thế Giới Liên Hoa Thượng ấy, đức Liên Hoa Tạng Như Lai đã nói về Tiên Nhân, vị này có thể khiến cho người tạo tội ngũ nghịch được diệt hết trọng tội.
Con thật không biết vị tiên ấy ở địa vị nào?
Cúi mong Đức Phật từ bi khai thị.
Đức Phật bảo: Này Phổ Dũng! Vị Tiên Nhân ấy đã được địa vị bất thối chuyển, không lâu nữa sẽ thành tựu chánh pháp đại tập hội.
Bồ Tát Phổ Dũng nên biết rằng lời nói Chư Phật rất thâm sâu vi diệu. Nếu ai nghe chánh pháp này càng sanh tâm tín ngưỡng và thọ trì, thì người ấy sẽ thấy được Tiên Nhân, cũng đồng thấy hằng hà sa số sắc tướng thù diệu của Chư Phật Như Lai, được Chư Phật thương yêu, được Chư Phật khen ngợi, thường được an trụ trong Tam Muội của Chư Phật nên có thể thông đạt được chánh pháp đại tập hội như vậy.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Phổ Dũng: Nay ngươi hãy lắng nghe! Ta nhớ thời quá khứ cách đây vô lượng, vô số A tăng kỳ kiếp về trước, đã gặp mười hai Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Bảo Thượng.
Lúc đó ta tu hạnh bố thí một cách dũng mãnh. Ta liền đem đồ ẩm thực, y phục trang nghiêm tốt đẹp châu báu, anh lạc, và các tràng hoa, hương xoa … cúng dường tất cả Chư Phật. Khi ấy các Đức Như Lai đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, gặp được mười tám Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Bảo Quang. Ngay lúc ấy ta cũng tu hạnh bố thí dũng mãnh, cũng dùng các vật cúng dường như vậy đem cúng dường tất cả các Đức Phật ấy. Khi đó, các Đức Như Lai cũng đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, gặp được hai mươi Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Đảnh Sanh. Lúc ấy ta cũng tu hạnh bố thí dũng mãnh, cũng dùng các vật cúng dường như trên đem cúng dường tất cả các Đức Phật ấy. Khi đó, các Đức Như Lai cũng đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, gặp được mười sáu Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Vô Cấu Quang. Lúc đó ta cũng tu hạnh bố thí dũng mãnh, là một vị đại trưởng giả, vô cùng giàu có, ta cũng dùng các vật cúng dường như trên đem cúng dường các Đức Phật ấy. Khi đó, các Đức Như Lai cũng đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, gặp được chín mươi lăm Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Năng Tịch.
Lúc đó ta cũng tu hạnh bố thí dũng mãnh. Ta là vị đại quốc vương, hay đem chánh pháp giáo hóa nhân dân, tự tại, khoái lạc, của cải vô lượng, cũng đem các vật báu cúng dường như trên, cúng dường tất cả Chư Phật. Bấy giờ, các Đức Như Lai cũng đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, gặp được chín mươi Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Tác Trang Nghiêm.
Ta là vị Bà La Môn có nhiều của quý, một lúc nọ ta bỏ hết các của cải để sắm các vật cúng dường tuyệt hảo như trên, cúng dường các Đức Phật ấy. Khi ấy, các Đức Như Lai cũng đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, gặp được mười tám Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Kim Tiên Nhân. Lúc đó ta cũng tu hạnh bố thí dũng mãnh, cũng dùng các vật cúng dường như trên, cúng dường các Đức Phật ấy. Khi đó, các Đức Như Lai cũng đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, ta gặp được mười ba Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Kiết Tường Quang.
Lúc ấy ta cũng tu hạnh bố thí dũng mãnh, cũng dùng các vật cúng dường như trên, cúng dường các Đức Phật ấy. Khi đó, các Đức Như Lai cũng đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, đã gặp được hai mươi lăm Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Diệu Hoa.
Lúc ấy ta mới phát tín tâm, xuất gia tu đạo, thường hành tinh tấn, đối với các Như Lai ấy ta đều cung kính, vâng lời, cúng dường như Tôn Giả A Nan đã làm, không hề sai khác. Bấy giờ, các Đức Như Lai cũng đều thọ ký cho ta quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Phổ Dũng! Ta lại nhớ trong kiếp quá khứ, đã gặp được mười hai Câu Đê Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều cùng một tên là Thắng Quán.
Lúc đó ta cũng theo các Ngài xuất gia. Khi ấy các chúng sanh ở trong Cõi Diêm Phù Đề đều giàu có, không có chúng sanh nào bị nghèo khổ, thiếu thốn. Các Đức Phật ấy đã xuất hiện ở đời, rộng vì các chúng sanh tuyệt nói chánh pháp đại tập hội.
Lúc ấy ở chỗ các Đức Như Lai ta cung kính tôn trọng, vâng lời, cúng dường, để cầu được các pháp Ngài thọ ký quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Nhưng bấy giờ các Đức Phật ấy chẳng thọ ký cho ta.
Ta liền thưa: Bạch Chư Phật Thế Tôn! Lúc nào con mới được thọ ký?
Các Ngài trả lời: Này thiện nam tử! Từ nay trải qua A tăng kỳ kiếp, có Đức Phật ra đời hiệu là Nhiên Đăng, Đức Phật Thế Tôn ấy sẽ thọ ký cho ngươi.
Nghe các Đức Phật ấy nói xong, ta tu hạnh Bồ Tát càng thêm tinh tấn. Đến khi trải qua A tăng kỳ kiếp, Đức Nhiên Đăng Như Lai xuất hiện ở thế gian.
Lúc đó, ta đối với Ngài là vị Ma Nổ Phạ Ca Phật, Bồ Tát Ý Sanh Thân tên là Thắng Vân, tu các phạm hạnh, nhờ được thấy Đức Phật ấy nên ta rất vui mừng, cung kính tôn trọng, phát tâm cho là hiếm có, ta liền đem bảy nhánh hoa sen để cúng dường Ngài, và nguyện rằng: Mong cho con nhờ thiện căn này, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Bấy giờ Đức Như Lai Nhiên Đăng, ở trong đại chúng thọ ký cho ta rằng: Này thiện nam tử! Ở đời vị lai trải qua A tăng kỳ kiếp, ngươi sẽ thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni, đầy đủ mười hiệu.
Ngay khi được thọ ký xong, ta ở trước Ngài nhảy lên hư không cao đến mười hai cây Đa La, lại xuống dưới đất, một lòng hoan hỷ, tức thì chứng được pháp nhẫn vô sanh.
Phổ Dũng, nên biết rằng ta ở trong những số kiếp như vậy, tu các phạm hạnh, trồng các căn lành, cúng dường các Đức Phật, đều được tròn đầy các Ba la mật, tự mình đã được viên mãn, lại khiến cho vô số, trăm ngàn Câu Đê, Na Dữu Đa chúng sanh đều được viên mãn tất cả các Pháp Ba la mật như vậy.
Ngày nay ta đã được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề khắp vì chúng sanh tuyên thuyết rộng rãi pháp môn vô thượng thậm thâm vi diệu. Nếu có chúng sanh nào muốn thấy Chư Phật liền hiện thân Phật để thuyết pháp.
Nếu có chúng sanh muốn thấy Bồ Tát, ta liền hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp. Nếu có chúng sanh muốn thấy Duyên Giác, ta liền hiện thân Duyên Giác để thuyết pháp. Nếu có chúng sanh muốn thấy Thanh Văn, ta liền hiện thân Thanh Văn để thuyết pháp.
Lại nữa, nếu ở Cõi Trời, ta liền hiện thân Trời để thuyết pháp. Nếu ở cõi người ta liền hiện thân người để thuyết pháp. Nếu ở loài rồng, ta liền hiện thân rồng để thuyết pháp. Nếu ở loài Dạ xoa, ta liền hiện thân Dạ xoa để thuyết pháp. Nếu ở loài quỷ, ta liền hiện thân quỷ để thuyết pháp.
Tùy theo sắc tướng của tất cả chúng sanh trong các loài ta đều hiện thân cõi đó, dùng phương tiện thiện xảo để tuyên dương diệu pháp, khiến cho họ không thấy sợ hãi, để họ càng thêm tin hiểu.
Này Phổ Dũng! Nay ta vì sao dùng các phương tiện, hiện các thứ thân để thuyết pháp như vậy?
Vì sao để cho các chúng sanh khi nghe pháp rồi đối với thắng nghĩa để được đại tổng trì, quan sát các thế gian, khơi lên tưởng vô thường, thường nghĩ tu hành tất cả thiện pháp, mà có thể cứu cánh, lìa các tạp nhiễm, thiện căn chơn thật, không bị tổn giảm. Ta luôn luôn dùng các phương tiện ấy để làm lợi ích an lạc tất cả chúng sanh.
Này Phổ Dũng! Như điều ta nói trên, chánh pháp đại tập hội này có công đức như vậy.
Lúc đó ở trong hội có người sanh nghi nói với nhau rằng: Quả báo của chánh pháp là hữu hay vô?
Quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề là khả đắc hay bất khả đắc?
Tất cả chúng sanh là có thể độ hay không thể độ?
Có người nói như vậy: Như lời Phật nói các pháp thật có nhân hay sanh ra quả, quả chắc chắn phải từ nhân.
Người đeo nhân lành thì thiện pháp làm sao mất?
Có người nói như vậy: Các pháp chẳng phải có quả báo, cũng chẳng phải không có.
Nhân vốn tự không, vậy làm gì có quả?
Nhân quả đã không nói có sự trở về.
Này Phổ Dũng! Tất cả chúng sanh tâm sanh sai biệt, vì sáng tối chống nhau nên nhân quả mới tự khác.
Nếu người nói đúng liền khởi lên cái thấy chân thật, đó chính là kiến lập chánh pháp.
Phước báo của người ấy, nay ta sẽ nói, ngươi hãy lắng nghe: Trong hai mươi kiếp không sanh ở Châu Bắc Cu Lô, trong hai mươi lăm kiếp đều sanh ở Cõi Trời thứ ba mươi ba. Khi quả báo Trời hết rồi, vị ấy mới sanh vào trăm ngàn Cõi Phật, thấy các Đức Phật, nghe được chánh pháp. Vị ấy không còn thối chuyển nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Nếu người tà thuyết liền khởi lên cái thấy đoạn diệt, đó chính là kẻ phá hoại chánh pháp.
Nay ngươi hãy lại lắng nghe ta nói về tội báo của người ấy: Người ấy từ lúc mạng chung, sanh vào địa ngục lớn, thọ khổ suốt một kiếp. Như vậy cứ một kiếp rồi lại một kiếp cho đến hết tám kiếp.
Cứ mỗi lần sanh vào một đại địa ngục, khổ thống ở trong tám địa ngục lớn như vậy xong, lại trong chín ngàn hai mươi tám kiếp, vẫn ở trong ba đường ác, tiếp nhau sanh lợi để thọ lấy sự khổ não lớn.
Khi trải qua số kiếp ấy xong, tuy được làm thân người, trong một vạn sáu ngàn kiếp, bị chết trong bào thai của mẹ, trong một vạn bốn ngàn kiếp bị không có lưỡi, trong một vạn hai ngàn kiếp, lúc sanh ra liền không có mắt.
Này Phổ Dũng! Nên biết rằng: Tất cả chúng sanh không bao giờ cùng tận, hoặc ở trong cõi này, hoặc ở trong cõi khác, hoặc duyên nơi sanh, hoặc duyên nơi tử, hoặc thị xứ, hoặc phi xứ, hoặc vừa ý, hoặc không vừa ý, đều do tâm tạo tác, tùy nghiệp mà phát hiện.
Hoặc có chúng sanh tu các thiện pháp thì được sanh lên Cõi Trời, hoặc có chúng sanh cầu bồ đề, nên tu các hạnh nguyện, hoặc có chúng sanh dần dần được cứu cánh vô thượng tịch diệt.
Vì nhân duyên ấy, nên Chư Phật Như Lai, vì vô số trăm ngàn Câu Đê Na Dữu Đa chúng sanh, hoặc đã phát tâm hay chưa phát tâm, hoặc Trời, Người, Rồng, Thân … thuyết pháp để hóa độ, các Ngài không bao giờ dừng nghỉ dù chỉ thời gian ngắn.
Bấy giờ, khi Đức Thế Tôn đang thuyết pháp, lại có tám vạn bốn ngàn chúng Bà La Môn, chín mươi ngàn Câu Đê chúng ngoại đạo Ni Càn Đà … cùng nhau nghị luận rằng: Này Sa Môn Cù Đàm, ở trên đảnh Linh Thứu, tại thành Vương Xá, đại chúng trong toàn hội này, biết vị ấy nói những gì?
Nay chúng ta hãy cùng nhau đến chỗ vị ấy để nghị luận.
Ngay khi các Bà La Môn ngoại đạo cùng nhau bàn bạc xong, cùng với vô số quyến thuộc liền đi đến chỗ Đức Phật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ở trong hội, liền phóng ánh sáng lớn, vi diệu, thanh tịnh, hy hữu, chiếu khắp đại chúng.
Lúc ấy, Đại Bồ Tát Từ Thị từ tòa đứng dậy, trạch áo vai hữu, quỳ gối mặt xuống đất, chắp tay cung kính bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Đâu phải vô cớ mà Đức Thế Tôn phóng ra luồng ánh sáng này. Nay trong đại chúng này đều muốn được nghe và biết về việc ấy. Cúi mong Đức Phật từ bi giải thích cho chúng con.
Đức Phật bảo: Này thiện nam tử! Nay ngươi nên biết rằng, hiện tại trong hội này có vô lượng chúng dẫn đến tập hội.
Bồ Tát Từ Thị lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Ngài nói những chúng nào?
Hoặc chúng loài Trời chăng?
Hay chúng loài người?
Hoặc chúng long thần dạ xoa … chăng?
Đức Phật bảo: Này Từ Thị! Như lời ngươi nói, những chúng như vậy đều đến tập hội. Lại có các chúng Bà La Môn, ngoại đạo, Ni Càn Đà đi vào trong hội này để luận nghị với ta.
Khi điều phục họ xong, ta sẽ thuyết pháp cho họ như Chư Phật thường làm. Lúc ấy tám vạn bốn ngàn Bà La Môn, chín mươi ngàn Câu Đê ngoại đạo chúng Ni Càn Đà thảy đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Từ Thị! Lại có một vạn tám ngàn Câu Đê chúng Long Vương đi vào trong hội nghe ta thuyết pháp xong, cũng đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Lại có sáu vạn Câu Đê chúng Thiên Tử Tịnh Quang, ba vạn hai ngàn Câu Đê chúng các Thiên Ma, một vạn hai ngàn chúng A Tu La, các chúng như vậy đều vào trong hội để thỉnh thọ chánh pháp.
Lại có các quốc vương của Chư Thiên, đó là Vua Hoan Hỷ, Vua Diệu Hỷ, Vua Tối Thượng Hỷ, Vua Nhân Tiên, Vua Tịnh Quân, Vua Phạm Ân, Vua Thiện Huệ, Vua Ái Quân, Vua Hỷ Quân, Vua Diệu Sắc, Vua Thắng Quân, Vua Tăng Trưởng.
Như vậy cả thảy năm trăm đại quốc vương, mỗi vị đều có một ngàn câu để quyến thuộc đi theo, đều đi vào hội để thịnh thọ chánh pháp, tất cả đều trụ tâm kiên cố, Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Này Từ Thị! Do nhân duyên đó, nên ta phóng luồng ánh sáng này.
Bấy giờ Bồ Tát Từ Thị nghe Đức Phật nói về đại chúng tập hội tại đây, trong chúng Thiên Nhân và Phi nhân, có người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề. Có người nghe chánh pháp thì sanh tâm tín thọ, sanh đại hoan hỷ lạy dưới chân Đức Phật xong, nhiễu bên hữu ba vòng, liền ở trong hội ẩn thân.
Khi ấy các Bà La Môn, ngoại đạo Ni Càn Đà Tả Ra Ca Ba Lị Một Nha Nhạ Ca, hoặc Trời, hoặc Rồng cho đến năm trăm đại Quốc Vương, đến chỗ Đức Phật xong, tùy theo sự tu kính của mình đều ngồi xuống một bên.
Bấy giờ ở phương Đông có ba vạn Cu Đê đại chúng Bồ Tát, phương Đông Nam cũng giống như vậy.
Phương Nam có năm vạn Cu Đê đại chúng Bồ Tát, phương Tây Nam cũng lại như vậy.
Phương Tây có sáu vạn Cu Đê chúng Đại Bồ Tát, phương Tây Bắc cũng giống như vậy.
Phương Bắc có tám vạn Câu Đê chúng Đại Bồ Tát, phương Đông Bắc cũng giống như vậy. Phương trên có mười vạn Câu Đê chúng Đại Bồ Tát.
Các chúng Đại Bồ Tát ở mười phương như vậy, vị nào cũng chứng trọn vẹn Thập Địa, tùy theo chỗ ở của mình đi vào trong hội của Phật. Khi đến chỗ Đức Phật xong, các vị đều lấy đầu mặt lạy dưới chân Đức Phật rồi ngồi qua một bên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Phổ Dũng: Này Phổ Dũng! Nay ngươi lại đến mười phương Thế Giới tuyên thị cho các chúng Bồ Tát, nói như vậy: Hôm nay Đức Như Lai sẽ tuyên thuyết chánh pháp đại tập hội cho các chúng sanh, khiến cho Bồ Tát tất cả mười phương chắp tay, đảnh lễ, sanh tâm tùy hỷ.
Khi ấy, Bồ Tát Phổ Dũng vâng theo thánh chỉ của Phật liền lấy đầu mặt đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn, nhiễu quanh bên hữu ba vòng, bỗng ở trong hội, ẩn thân đi khắp mười phương Thế Giới, tùy theo từng phương mà phát ra âm thanh lớn, xướng lên rằng: Hiện nay Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni ở Thế Giới Ta Bà sẽ tuyên thuyết chánh pháp đại tập hội cho các chúng sanh.
Như vậy ba lần Bồ Tát đều xướng lên rằng: Hiện nay Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni ở Thế Giới Ta Bà sẽ tuyên thuyết chánh pháp đại tập hội cho các chúng sanh.
Bấy giờ Chư Phật và các Bồ Tát ở mười phương nghe lời ấy nên đều khen ngợi: Lành thay! Lành thay! Đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni hay ban sự an lạc, lợi ích cho các chúng sanh và họ khen ngợi Bồ Tát Phổ Dũng có thể tuyên dương Phật sự ở mười phương Thế Giới.
Bấy giờ Bồ Tát Phổ Dũng đi khắp mười phương Thế Giới tuyên thị cho các Đại Bồ Tát xong, trong khoảng thời gian như khảy móng tay, liền trở về quốc độ đứng trước Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, rồi lui về ngồi một bên.
Khi ấy có bốn vị Vua thần gió ở bốn hướng đi vào trong hội. Các cảnh giới hơn một trăm do tuần khắp thành Vương Xá, các vị ấy đều khiến cho thanh tịnh, không có các cấu uế, Thiên chủ Đế Thích, cầm chày kim cang bước vào trong hội.
Các ma ngoại đạo bỗng nhiên thấy mười phương Thế Giới, ở trong hư không phủ đầy một lớp mây thơm, đổ một trận mưa hương thơm ngọt ngào, với trầm thủy, chiên đàn, không có gì có thể ví dụ được.
Lại mưa các Thiên hoa, đó là hoa Ưu Bát La, hoa Câu Mẫu Na, hoa Bôn Noa Lợi Ca … các thứ diệu hoa, ở trên không trung biến thành cái lọng.
Lại ở trên Đức Phật biến thành tám vạn bốn ngàn lầu giác, cứ mỗi lầu gác đều làm bằng bảy báu, trang nghiêm thù diệu pha trộn đủ màu.
Lại ở trên không trung hiện ra vô lượng vô biên đại bảo tòa, cứ mỗi tòa đều có Đức Phật ngồi trên, đang tuyên nói Diệu Pháp cho chúng sanh. Khi ấy Thế Giới ba lần ngàn này có sáu thứ chấn động.
Bấy giờ Đại Bồ Tát Phổ Dũng chắp tay cung kính bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà trên hư không hiện tướng tốt hy hữu này, quả đất bỗng nhiên chấn động như vậy. Cúi mong Đức Phật từ bi nói cho con biết.
Đức Phật bảo: Này Phổ Dũng! Nay mười phương các Đại Bồ Tát và Trời, Người, Rồng, Thần … ở trong hội này thảy đều vân tập. Nay ta sẽ tuyên nói chánh pháp cho họ nghe. Lại nữa, ta sẽ vì các ngoại đạo phá trừ tà tâm cho họ, khiến họ trở về với chánh kiến. Do nhân duyên đó nên hiện ra điềm lành này.
Phổ Dũng! Nên biết rằng: Các kẻ phàm phu, tuy được gặp Đức Như Lai, bậc Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, xuất hiện thế gian không thể đối với sắc tướng thù diệu của Đức Phật khởi tâm tôn trọng, sanh tư tưởng là khó gặp, ví dầu được nghe Đức Phật tuyên nói chánh pháp.
Không thể y theo pháp mà tu hành, lại sanh ra sự chấp tướng, khởi ra tâm ngã mạn, tạm thời được nghe, dối sanh ra sự biết nhiều, mà lại khởi tư tưởng cho là dễ được, rồi nghi hoặc, không tin, nói như vậy: Như lời Phật dạy, hoặc khế kinh, hoặc kỳ dạ, từ xưa ta không nghe biết đã nói gì. Nay ta không thể thỉnh thọ, ghi nhớ. Ta đối với các pháp, đều hiểu rõ hết.
Người ấy vì tâm mê hoặc buông lung theo sự ngu si của mình, chống lại Phật Pháp, tạo nguyên nhân tội nghiệp, tự tạo kinh sách, tuyển tập nghĩa lý, ở trong thế gian, họ chính thức nói như vậy: Ta đã tạo tập trí thiện xảo này, lại khuyến khích cho người khác tu tập.
Tuy chính ta đã tạo ra kinh điển, khuyến khích người khác tu tập, cho dù có làm các thứ phương tiện, cuối cùng cũng không thể khiến cho một bổ đặc già la nào được sự lợi lạc, ở trong nhiều đời, tự hoại thân mình. Do nhân duyên nghiệp ấy nên khi mạng chung phải chịu sự khổ não lớn.
Này Phổ Dũng! Các ngoại đạo này tâm sanh mê hoặc, sanh kiến chấp bất chánh, nên không thể giải thoát. Giống như loài chim, thú lúc còn non, lông cánh chưa sanh làm sao có thể bay được. Người nào cho rằng nó vẫn bay được thì đó là lừa dối một cách hư vọng.
Bọn ngoại đạo này nếu không hồi tâm trở về với chánh pháp của Phật, thì họ làm sao có thể đạt được Niết Bàn thanh tịnh cứu cánh vô thượng?
Họ thường tự chấp là Niết Bàn cũng hư vọng.
Vì sao vậy?
Vì bọn ngoại đạo này tạo nhân bất chánh, khởi sanh giới cấm thủ, phá hoại tự thân, đoạn diệt chánh pháp, chấp ngã kiến một cách kiên cố, nên không thể nào giải thoát được. Cho dù họ có thể được thân người đi nữa vẫn không được quả báo tốt.
Làm sao có thể đạt được Niết Bàn thanh tịnh thật sự, trong khi đối với tự thân vẫn chưa có thể hiểu biết từ đâu sanh đến đây, và sẽ đi về đâu?
Sanh diệt luống dối, thọ các khổ não, tăng thêm đường ác, không lúc nào dừng nghỉ. Ta quán thấy họ như vậy nên càng thêm thương xót.
Bấy giờ Đức Thế Tôn khi nói lời ấy xong, bảo các ngoại đạo Ni Càn Đà … rằng: Các ngươi nên biết! Trong Cõi Diêm Phù Đề có hạt bảo châu lớn không ai có thể gìn giữ tùy ý xử dụng được. Ta đã tuyên nói về đại pháp tụ. Nếu có ai mong cầu, ta không bao giờ tiếc lẫn. Nếu các ngươi có nghi hoặc hay hy vọng mong cầu, cứ tùy ý mà hỏi. Như Lai với lòng đại bi sẽ phân biệt khai thị cho tất cả.
Bấy giờ các ngoại đạo Ni Càn Đà … đều từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về Đức Phật hỏi rằng: Thưa Đức Thế Tôn! Đức Phật luôn luôn độ các chúng sanh khiến họ ra khỏi luân hồi.
Tại sao chúng sanh vẫn sanh diệt liên tục không lúc nào gián đoạn?
Đối với việc này chúng con không thể hiểu rõ, mong Ngài tuyên thuyết cho.
Khi ấy Đức Thế Tôn liền ở trong hội, bảo Bồ Tát Dược Vương Quân rằng: Nay các ngoại đạo ở trong hội này, nhờ ánh sáng oai thần của ta chiếu diệu, nên dần dần có thể khai hiểu, mặc áo giáp tinh tấn, nên chấm dứt được tâm nghi hoặc, mới có thể dùng nghĩa này để hỏi Đức Phật Thế Tôn.
Này Dược Vương Quân! Tất cả chúng sanh tóm lược có hai loại: Một là sanh lâu, hai là mới sanh. Thí như có người giàu sang tự tại bỗng nhiên vào một hôm lấy nước gội đầu lại dùng y phục thượng diệu, sạch sẽ để trang sức, rồi đi ra khỏi nhà.
Lúc ấy có một người nghèo thấy anh ta trong lòng rất sung sướng. Người nghèo đó liền trở về nhà mình lại gội đầu và lấy bộ y phục vừa mặc giặt giũ làm cho thật sạch. Người nghèo ấy tuy dùng rất nhiều nước để giặt áo quần cũ của mình, chỉ nhọc sức mà cuối cùng cũng không thể làm cho bộ y phục mới đẹp được.
Tất cả chúng sanh, hoặc kẻ sanh lâu thì cũng giống như người nghèo ấy, tuy ra sức giặt bộ y phục cũ của mình vẫn không thể làm cho nó trắng sạch được. Hoặc kẻ mới sanh thì như người giàu có ấy, mặc bộ y phục mới chưa dính bụi dơ.
Bấy giờ các Bà La Môn ngoại đạo, Ni Càn Đà … nghe Đức Phật nói lời ấy xong, liền bạch Đức Phật: Thế nào là mới sanh?
Thế nào là sanh lâu?
Đức Phật nói: Chúng sanh thọ khổ liên tục trôi lăn trong sáu đường nên nói là sanh lâu.
Vì sao vậy?
Vì các chúng sanh ấy ở trong sáu đường, không sanh ra sự nhàm chán, không cầu giải thoát.
Khi ấy họ lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói chúng sanh sống lâu trong luân hồi, chịu các sự khổ não, không thể giải thoát. Còn chúng sanh mới sanh thì như thế nào, mong Đức Phật chỉ rõ.
Khi họ hỏi như vậy xong, bấy giờ bỗng nhiên có chín mươi bốn ngàn Câu Đê Ma Hộ Phạ Ca đi vào trong hội, đến trước Đức Thế Tôn nhưng không cúi đầu kính lễ, cũng chẳng hỏi han gì, chỉ im lặng mà đứng.
Bấy giờ Bồ Tát Dược Vương Quân thấy việc ấy xong, liền bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì nay bọn người này đi vào trong hội của Phật đã không kính lễ Ngài mà lại chẳng hỏi han gì.
Việc này là thế nào?
Đức Phật bảo Dược Vương Quân: Các Ma Nổ Phạ Ca này là những kẻ mới sanh, nên đối với Phật Thế Tôn, chưa có gì để nói.
Khi ấy các Ma Nổ Phạ Ca liền nói như vậy: Bạch Thế Tôn! Chúng con là những kẻ mới sanh.
Đức Phật nói: Đúng vậy! Đúng vậy! Các ngươi mới sanh như mặt Trời mới mọc, ánh sáng tỏa khắp bao trùm tất cả, vô lượng chúng sanh thảy đều chiêm ngưỡng. Các ngươi từ lâu đối với Phật Đạo tâm đã thành thục, các pháp của Bồ Tát từ xưa đã thông đạt. Tuy gọi là mới sanh mà từ lâu đã tu tập.
Bấy giờ chín mươi bốn ngàn Câu Đê Ma Nộ Phạ Ca mới sanh thảy đều nhảy lên hư không, rồi từ trên hư không đi xuống đất, ai cũng được Thập Địa viên mãn.
Bấy giờ Bồ Tát Dược Vương Quân chắp tay cung kính, sanh tâm hy hữu bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Các chúng sanh ấy được lợi ích lớn, từ lâu đã chấm dứt vòng luân hồi khổ não, đầy đủ sự tinh tấn lớn, đó gọi là mới sanh. Hôm nay thấy Phật chỉ trong khoảng khắc liền được giải thoát.
Bấy giờ trong chúng các Bà La Môn, ngoại đạo Ni Càn Đà, có người bị mù, nhờ được nghe pháp, bỗng thấy được ánh sáng, đều được thấy sắc tướng thù diệu của Đức Phật.
Khi đã thấy được tướng Phật đều nói như vậy: Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác là Bậc Thầy Tối Thắng, chúng con xin quy y Ngài.
Họ liền đứng dậy chắp tay, sanh tâm tịnh tín, bạch Đức Phật: Hôm nay chúng con được thấy Đức Thế Tôn.
Đức Phật dạy: Các ngươi hãy nên xem lại cho kỹ, quán sát sắc tướng thù diệu của Phật Như Lai. Các ngươi nên biết rằng hôm nay các ngươi năng lực thiện căn đã được thành thục, nên mới được thấy Thế Tôn, lại được nghe Pháp đại tập hội.
Bấy giờ các người ngoại đạo đui mù được sự lợi này, nên sanh tâm rất vui mừng, thảy đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Khi ấy các Bà La Môn, ngoại đạo Ni Càn Đà … ở trong hội, nghe Đức Phật thuyết pháp cũng đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, chứng được vô sanh pháp nhẫn, viên mãn Thập Địa, liền thành chúng Đại Bồ Tát.
Họ liền nhảy lên hư không cao đến bảy cây Đa La, ở trong không trung hiện các thứ thần thông biến hóa, họ lại hóa ra các thứ vòng hoa, anh lạc, dù lọng, tràng phan, lầu gác bảy báu … hiện ở trên Đức Phật để cúng dường Ngài.
Họ đều nghĩ rằng: Nay thân này của ta từ trí Phật sanh ra, từ chánh pháp sanh ra, các Đức Như Lai là chỗ thân Phật để ta trở về. Khi họ nghĩ như vậy xong từ trên không trung đi xuống, đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn, rồi lui về ngồi một chỗ.
Bấy giờ trong hội có vô số trăm ngàn Thiên Tử, khi thấy việc này xong, liền nói bài kệ tụng:
Phật là Đại Sa môn
Được thiên lợi tối thượng
Với tất cả thế gian
Tối tôn không ai bằng
Nguyện lực tam ma địa
Thảy đều được đầy đủ
Tất cả pháp thắng nghĩa
Không ai mà không biết
Tất cả loại chúng sanh
Luân hồi khổ vô thủy
Phật, phương tiện thiện xảo
Khiến tất cả giải thoát
Ngoại đạo Bà La Môn
Đều được lợi lạc lớn.
Bấy giờ Đại Bồ Tát Dược Vương Quân từ tòa đứng dậy, càng thêm cung kính, quỳ gối đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn.
Đảnh lễ xong, liền chắp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà các Bồ Tát này có thể hiện các Thần biến ở trên hư không, hiện các sắc tượng ở trước Đức Như Lai?
Đức Phật bảo: Hãy lắng nghe!
Này Dược Vương Quân! Các thiện nam tử này đã được tất cả các Đức Như Lai nhiếp thọ, không lâu nữa, họ sẽ được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, ngồi trên pháp tòa lớn chuyển pháp luân vi diệu, dùng ánh sáng pháp chiếu khắp quần sanh. Do nhân duyên đó nên họ có thể làm các biến hóa.
Bấy giờ Bồ Tát Dược Vương Quân lạc bạch Đức Phật: Như Đức Phật Thế Tôn! Luôn luôn trong mọi lúc độ thoát vô số các chúng sanh. Nhưng vì sao các chúng sanh ấy vẫn không cùng tận.
Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay!
Này Dược Vương Quân! Thí như có người dùng các hạt lúa mạch, lúc mì để gieo giống, tất cả hạt giống đều được phân loại không có xen tạp. Thời gian sau đó, các hạt giống thảy đều thành thục.
Người ấy liền theo thứ lớp mà gặt hái, hoặc đây là lúa mì, hoặc đây là lúa mạch, cũng không bị xen lộn. Như vậy dần hồi, gặt xong lại gieo, gieo xong lại gặt không bao giờ dứt.
Này Dược Vương Quân! Các chúng sanh ấy cũng lại như vậy. Do nhân duyên nghiệp nên tung rải rác các chủng tử hoặc thiện hoặc ác, không có xen tạp, về sau khi thành thục phải thọ lấy các quả báo cũng không xen tạp. Như vậy dần dần sanh rồi lại sanh, cũng không cùng tận.
Này Dược Vương Quân! Nếu có người tu hành Bồ Tát, hay tung rãi tất cả giống thiện pháp, hạt nào cũng thành thục, khi đã thành thục liền có thể sanh ra tất cả thiện pháp, thiện pháp đã sanh thì liền sanh đại hoan hỷ, ưa thích Phật Pháp. Hạt giống thiện pháp ấy tuy trải qua nhiều kiếp vẫn không thể hư hoại.
Này Dược Vương Quân! Nên biết đó là Bồ Tát mới phát tâm, tất cả thiện pháp mà họ đạt được, chứa nhóm biết rõ, càng tăng thêm sự thắng ích. Tuy những điều thấy trong mộng mà vẫn lìa các sự sợ hãi.
Vì sao vậy?
Vì tất cả nghiệp chướng đều được thanh tịnh, không tạo pháp ác, nên lìa các khổ não, dù cảnh ác hiện ra trước mặt vẫn không thể lay động họ được. Nếu ở trong mộng mà thấy đống lửa lớn, ánh sáng cực mạnh, Bồ Tát thấy rồi vẫn không sanh tâm sợ hãi.
Vì sao?
Vì các thứ củi phiền não đã bị lửa trí huệ đốt cháy, nên không thể làm mê loạn. Lại ở trong mộng thấy có nước lớn, nhưng nước ấy không thanh khiết, hoàn toàn ô trược, Bồ Tát thấy nhưng vẫn không sanh tâm sợ hãi.
Vì sao vậy?
Vì đã dứt sạch hết các nghiệp đã tạo. Giống như trâu bò đã bỏ gông ách nên được tự tại. Lại nữa, nếu trong mộng mà thấy cầm dao bén nhọn tự chặt đầu mình, chặt đầu người khác. Lúc ấy Bồ Tát vẫn không sanh tâm sợ hãi.
Vì sao vậy?
Vì tham sân si là căn bản trong các phiền não, Bồ Tát đã đoạn trừ chúng nên không còn sợ hãi.
Này Dược Vương Quân! Bồ Tát mới phát tâm ấy, đối với sáu nẻo luân hồi đã được giải thoát, nhưng lại ở trong đó, tùy thuận thọ sanh. Đó là do Bồ Tát dùng sức phương tiện, thị hiện hóa độ tất cả chúng sanh, nhưng kỳ thật Bồ Tát thường sanh trong các cõi thanh tịnh của Chư Phật, được tất cả các Đức Như Lai nhiếp thọ.
Này Dược Vương Quân! Nay ngươi nên biết rằng, ở đời mạt thế sau này, nếu có chúng sanh phát tâm hồi hướng Bồ Đề, tức là an trụ trí của tất cả Phật, được thấy thiện pháp viên mãn của Chư Phật, vĩnh viễn không còn sanh ra tâm nghi hoặc nữa.
Này Dược Vương Quân! Trong vô số trăm ngàn na dữu đa kiếp, ta đã siêng hành khổ hạnh, tu các thiện pháp, đối với tất cả pháp hiểu rõ tự tánh, liền được thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, ta đã được viên mãn.
Lại dùng trí huệ phương tiện thiện xảo, rộng thuyết các pháp, khiến cho các chúng sanh được sanh trong cõi thanh tịnh của Chư Phật, thọ sự diệu lạc thù thắng, mà hay hiểu rõ các pháp diệt đạo, biết rõ các pháp căn bản thắng diệu, biết rõ pháp thiện xứ thắng diệu, biết rõ pháp thần thông thắng diệu, biết rõ pháp tịch diệt, thiện xứ thắng diệu.
Này Dược Vương Quân! Nói diệt là nghĩa gì?
Bồ Tát Phổ Dũng Dược Vương Quân thưa: Bạch Thế Tôn! Đó là pháp xứ.
Đức Phật hỏi: Pháp xứ là gì?
Bồ Tát Dược Vương Quân đáp: Pháp xứ là hai pháp tinh tấn và trì giới. Nếu đã phát khởi, hoặc chưa phát khởi mà giới hạnh đầy đủ gọi là pháp xứ.
Bạch Thế Tôn! Các pháp từ pháp tạng này mà sanh ra.
Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này Dược Vương Quân ngươi đã ở trước Đức Như Lai mà có thể đáp được nghĩa này.
Bồ Tát Dược Vương Quân lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai vì ý nghĩa gì xuất hiện thế gian?
Đức Phật nói: Này Dược Vương Quân! Chư Phật xuất thế vì muốn khiến cho các chúng sanh được đầy đủ sự trì giới và nghe nhiều, khiến cho họ đều biết rõ chỗ an lạc thắng diệu, khiến cho họ thông đạt để hướng vào tất cả pháp môn thắng diệu, đã vào được pháp môn này rồi, liền có thể rộng tu tất cả thiện pháp dùng sức phương tiện để tăng trưởng thiện căn, đối với diệu Pháp tối thắng của thế và xuất thế gian đều được thông đạt.
Bồ Tát Dược Vương Quân lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Sao gọi là pháp xuất thế?
Đức Phật bảo: Này Dược Vương Quân! Pháp xuất thế là Pháp Niết Bàn. Nếu ai hiểu được tự tánh các pháp, tức là hiểu rõ thắng pháp Niết Bàn. Các pháp ấy tức là chánh pháp uẩn. Nếu đối với pháp ấy mà biết như thật, chứng như thật, thì người ấy là bậc nhất trong pháp xuất thế.
Này Dược Vương Quân! Các loại dị sanh đối với trong pháp thâm diệu của Phật Thế Tôn mà tự mình không tin, hướng theo để tu tập, cũng lại không thể khuyên bảo người khác. Các dị sanh ấy khi thân hoại mạng chung chẳng có thiện pháp để nương tựa.
Này Dược Vương Quân! Nay ngươi hãy lắng nghe. Ta nhớ thuở xưa có một thương nhân vì muốn cầu lợi nên anh ta mượn một ngàn lượng vàng đến nước khác để mà mua bán.
Cha Mẹ anh ta vì thương nhớ con nên bảo anh rằng: Này con! Các vàng bạc châu báu này không phải là vật sở hữu của mình, nếu có lúc tự nó mang đi, hoặc bị tán mất thì khổ não càng tăng, về sau con có hối hận cũng chẳng ích gì.
Lúc ấy người con trở lại tức giận không thèm nghe lời nói đó liền mang số vàng ấy đi qua nước khác. Khi đã đến nước khác thời gian chưa bao lâu mà số vàng anh mang theo đã khánh tận, lại chẳng kiếm được gì, dần dần anh tiêu hết, anh liền hối hận và vô cùng đau khổ.
Sau đó trở về nước nhưng anh không về nhà. Vì sự khổ đau do mất của nên anh sanh ra bệnh nặng.
Khi ấy cha mẹ anh biết anh đã trở về nhưng không dám về nhà. Họ lại biết số vàng bạc châu báu anh mang theo đã mất sạch, nên họ ưu sầu, mê muội, họ thầm nói với nhau: Nó chẳng phải là con của chúng ta, nó là thằng đại ác đã phá hoại gia tộc của ta, khiến cho tất cả mọi người đều phải nghèo khổ.
Nó lại làm cho người khác oán hận, đâu còn chỗ nào để nương tựa?
Nay chúng ta phải làm cách gì để thoát khỏi sự nghèo này.
Khi ấy cha mẹ anh vì sầu khổ, chán nản không thích sống nên muốn tự vẫn. Khi người thương nhân nghe cha mẹ mình bị đau khổ như vậy, liền trở về nhà, hướng về phía cha mẹ, nghẹn ngào mà đứng.
Cha Mẹ anh bỗng thấy con trở về, họ liền quên hết sự tức giận trước, đồng nói rằng: Vì sao con của ta có thể bị bệnh khổ này. Ta nghe việc vừa qua sợ con bị mất mạng. Nay con đã về, làm vơi nỗi sầu lo của chúng ta.
Bấy giờ người con thưa với cha mẹ: Thân tâm của con đau khổ như vậy, sự đau đớn bức bách từng chi tiết trong cơ thể như người sắp chết.
Vì sao vậy?
Ngay bây giờ mắt con không muốn thấy, tai không muốn nghe, tâm thức mê mờ, các khổ dồn lại, làm sao cha mẹ có thể cứu hộ con được?
Cha Mẹ anh nói rằng: Con ơi, đừng nên sợ hãi, khi con chưa chết, cha mẹ vẫn cứu giúp con. Nay con bị khổ não nên phải bị bệnh hoạn ngặt nghèo, tâm thức mê loạn, mà vọng thấy có sở kiến.
Khi đó người con trả lời: Con chẳng có bệnh hoạn ngặt nghèo, cũng không có sở kiến, có điều các cảnh khả ái đều chẳng hiện ra trước mắt con chỉ thấy cái khổ của sự chết rất hãi hùng, chắc chắn con phải chết, không thể cứu được.
Cha Mẹ anh bảo nhau rằng: Sự khổ của ta là do thiên thần chủ trì. Các vật trên thế gian đều có người nắm giữ. Vậy chúng ta hãy đến Miếu thờ Trời để cứu hộ cho con. Nếu làm như vậy, thì con chúng ta mới thoát khổ được.
Người con thưa: Thưa vâng.
Bấy giờ cha mẹ anh đem hương thơm đến miếu thờ Trời để cầu nguyện. Khi đến nơi họ thưa với người giữ cửa dẫn đến trước miếu, đốt hương cầu nguyện, sám hối và lễ tạ.
Khi ấy người giữ cửa nói với cha mẹ anh: Nếu các vị muốn cho bệnh của con mình được lành, phải làm cho Thiên Thần hoan hỷ. Muốn vậy phải thiết lễ cúng tế thì chắc chắn sẽ được như ý. Những vật dùng để cúng tế, theo pháp là phải giết một người, chứa đầy một bát để tế lễ.
Lúc ấy cha mẹ anh ta nghe người kia nói như vậy mới bàn với nhau rằng: Nếu chúng ta không tế lễ vị thiên thần ấy thì con chúng ta không làm sao thoát khổ được.
Nhưng hiện nay nhà chúng ta nghèo khổ làm sao có những vật ấy để tế thần?
Vậy chúng ta hãy về nhà để nghĩ mưu kế.
Họ bàn với nhau như vậy nên trở về nhà, đem tất cả đồ vật trong nhà ra bán và mua được một cái bát lớn.
Họ lại cùng nhau ra khỏi nhà đến chỗ một người nhà giàu nói với người đó rằng: Nay chúng tôi cần một ít tiền vàng, trong thời gian mười ngày thì chúng tôi sẽ hoàn đủ. Nếu sai hẹn quá mười ngày thì vợ chồng chúng tôi xin làm tôi tớ cho ông.
Khi họ nói như vậy, thì người nhà giàu ấy cho họ mượn vàng.
Khi cha mẹ anh ta được vàng rồi, họ không trở về nhà liền đem số vàng ấy mua được một người. Người bị mua ấy anh ta không biết phải làm gì, chỉ biết đi theo người chủ đến miếu thờ Trời.
Khi đến miếu thờ Trời họ nói với người giữ cửa miếu rằng: Hôm nay chúng tôi đã đem tế vật đến để tế thiên thần.
Người giữ cửa miếu nói: Quý vị hãy tùy ý.
Lúc đó cha mẹ anh ta ở trước thiên thần đốt hương khấn nguyện, thưa như vậy: Mong cho con của chúng tôi tiêu trừ bệnh khổ. Mong thiên thần hoan hỷ.
Họ nói như vậy xong họ liền đem người tế thần và cái bát to ấy tự tay giết chết người ấy để cúng tế.
Người bị tế thần vì chân tay bị trói chặt nên không thể tránh né, chỉ niệm các Đức Phật bằng một câu: Nam Mô Một Đà Da. Anh nói như vậy xong liền bị giết chết.
Khi ấy thiên thần nhận vật tế lễ xong, nói dối với cha mẹ anh ta rằng: Bệnh hoạn của con ông bà do ta chủ trì, nay ta đã tha khiến con ông bà được hết bệnh.
Bấy giờ cha mẹ của anh ta nghe lời nói ấy liền vui mừng nhảy nhót bái tạ rồi ra về, họ nói với nhau: Từ nay con của chúng ta được hết bệnh, trái lại còn được sống lâu.
Bây giờ tuy chúng ta không còn vàng nữa, nhưng chúng ta có thể trở về nhà của người giàu ấy và nói như trước rằng: Dù chúng tôi có làm nô lệ cho ông đi nữa, chúng tôi cũng chẳng hối hận.
Khi cha mẹ anh ta bàn bạc với nhau như vậy, chưa về đến nhà bỗng gặp một người đến nói rằng: Con của ông bà đã chết rồi. Lúc cha mẹ anh ta nghe lời nói ấy thì hết sức đau đớn, đều ngã xuống đất chết ngất.
Đức Phật dạy: Này Dược Vương Quân! Ta xem các dị sanh ngu si ở thế gian bị hoặc nghiệp trói buộc, vì không hội hợp với thiện tri thức, luôn bị suy tổn, cũng lại như vậy. Các dị sanh này khi thân hoại mạng chung, rơi vào đường ác, thọ khổ não lớn, không có thể cứu hộ được.
Bồ Tát Dược Vương Quân bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Như điều Phật dạy về người thờ thiên thần ấy, các bọn dị sanh này khi chết rơi vào chốn nào?
Đức Phật dạy: Này Dược Vương Quân! Thôi đi, đừng nên hỏi việc ấy.
Bồ Tát Dược Vương Quân lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Có người ở trong chúng này thích nghe việc ấy. Cúi mong Đức Phật nói cho.
Đức Phật bảo: Này Dược Vương Quân! Nay ngươi nên biết rằng, khi cha mẹ của người khách buôn ấy đã mạng chung đều phải đọa vào địa ngục chúng hợp, thọ lãnh sự khổ não to lớn, còn người con của họ đọa vào địa ngục viêm nhiệt, thọ lãnh sự khổ não lớn.
Người giữ cửa ở miếu thờ Trời ấy là kẻ hướng dẫn họ tùy hỷ theo việc làm tội lỗi, nên sau khi mạng chung phải đọa vào địa ngục A Tỳ thọ sự khổ não lớn.
Bồ Tát Dược Vương Quân lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Còn người bị đem làm vật tế thần ấy sẽ sanh về đâu?
Đức Phật dạy: Này Dược Vương Quân! Người ấy khi mạng chung, được sanh lên Cõi Trời thứ ba mươi ba, trong sáu mươi kiếp được hưởng sự vui tuyệt diệu.
Bồ Tát Dược Vương Quân lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Người ấy nhờ nhân duyên gì mà được sanh về đó?
Đức Phật bảo: Này Dược Vương Quân! Vì người ấy lúc mạng chung, tương ưng với sự thuần thiện, phát tâm tịnh tín, quy y Đức Như Lai, đã xưng niệm câu Nam Mô Một Đà Da. Chính nhờ người ấy đã gieo căn lành sâu dày rồi vậy.
Lại nữa, người ấy trong tám mươi kiếp được trí túc mạng biết kiếp trước bất cứ sanh ở đâu cũng lìa các phiền não, chấm dứt tất cả khổ.
Bấy giờ Bồ Tát Dược Vương Quân bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Có các chúng sanh ưa thích Niết Bàn vậy phải tu hạnh gì?
Đức Phật bảo: Này Dược Vương Quân! Phải tu hạnh tinh tấn, dõng mãnh, kiên cố.
Bồ Tát Dược Vương Quân thưa: Sao gọi là tu hành tinh tấn?
Và phát khởi hạnh ấy ở đâu?
Đức Phật dạy: Người tu hành tinh tấn thì đối với các quả pháp không thể giải đãi và không thối chuyển, gọi đó là hành tinh tấn.
Còn chỗ để hành tinh tấn đó là quả Dự Lưu gọi là chỗ tinh tấn, quả Nhất Lai gọi là chỗ tinh tấn, quả Bất Hòa gọi là chỗ tinh tấn, quả A La Hán gọi là chỗ tinh tấn, quả Duyên Giác, quả Duyên Giác Trí, gọi là chỗ tinh tấn, quả Bồ Tát, quả Bồ Tát trí gọi là chỗ tinh tấn.
Này Dược Vương Quân! Các người tu Bồ Đề, đối với những chỗ như vậy có thể phát khởi sự tinh tấn to lớn.
Bấy giờ Đức Phật bảo Bồ Tát Dược Vương Quân: Ta nhớ thuở xưa, vào một thời có Ma Nộ Phạ Ca trồng một cái cây trên khoảng đất bằng phẳng, cây ấy liền nảy mầm rồi sanh cành nhánh là hoa quả, tươi tốt khả ái. Rễ của cây ấy lan rộng đến một do tuần, chỉ có thời gian ngắn mà cây đã sum suê.
Sau đó lại có một Ma Nộ Phạ Ca đến bên cây đã trồng ở trước cũng trồng một cây nữa. Nhưng khi cây ấy trồng xuống đất thì bỗng có một luồng gió lớn thổi làm bậc gốc cây, làm cho mầm cây nhánh lá của cây không thể sống được, nên làm gì có sự thành tựu hoa và quả.
Người trồng cây thứ hai thấy như vậy rồi liền muốn đem cây đó đến trồng chỗ khác.
Bấy giờ người trồng cây đầu tiên nói như vậy: Tại sao anh đến phá hoại vùng đất bằng phẳng này của tôi?
Người trồng cây thứ hai nói: Nay tôi tự dời cây đã trồng của tôi đến chỗ khác chứ không làm hư đất bằng phẳng của anh đâu.
Cứ như vậy hai người tranh cãi nhau mãi. Lúc ấy có người ngầm tâu với Vua. Nhà Vua nghe xong ra lệnh bắt hai người đến, sứ giả vâng lệnh chạy đến chỗ xảy ra tranh chấp ấy. Lúc đó hai người tranh chấp ấy hết sức sợ hãi.
Sứ giả bắt hai người đến chỗ Vua: Bấy giờ nhà Vua hỏi hai người ấy rằng: Vì sao hai người lại cạnh tranh nhau?
Khi ấy người trồng cây thứ nhứt trình bày sự thật một cách đầy đủ.
Còn người trồng cây thứ hai thì nói như vậy: Đại Vương nên biết! Vì tôi không có đất để trồng cây. Cây của tôi trồng xuống bị gió làm trốc gốc nên không kiên cố được, đến như mầm cành nhánh lá hóa quả đều không thể sống được. Còn người trồng cây thứ nhứt chỉ trong thời gian ngắn mà sanh mầm cành nhánh là hoa quả thảy đều đầy đủ rễ cây lại còn tỏa ra cả một do tuần.
Tôi thấy việc ấy trong lòng tự lấy làm xấu hổ, liền dời cây của mình muốn trồng chỗ khác. Anh ta đã được như ý lại còn tức giận. Do vậy mà có sự cạnh tranh với nhau. Mong Đức Vua xét cho tôi khỏi bị tội phạt.
***