Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp đại Hội Tập
PHẬT THUYẾT KINH
CHÁNH PHÁP ĐẠI HỘI TẬP
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
PHẦN HAI
Lại nữa, này Phổ Dũng! Như người thế gian khi đã chết rồi, tuy có cha mẹ buồn rầu khóc lóc nhưng không thể nương tựa vào cha mẹ được nữa. Kẻ phàm phu không thể tư lợi, cũng không lợi tha, không tạo nghiệp lành, cũng lại như vậy. Đến lúc lâm chung, chẳng có gì để nương tựa. Tóm lại có hai loại người.
Tự mình tạo các nghiệp ác, cũng khuyến người khác tạo nghiệp ác.
Đối với chánh pháp của Phật sanh tâm khinh chê, hủy báng.
Bồ Tát Phổ Dũng lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu ai đối với chánh pháp của Phật mà sanh tâm khinh chê và hủy báng thì người ấy lúc mạng chung phải đọa vào chỗ nào?
Đức Phật dạy: Này Phổ Dũng! Người hủy báng pháp ấy sau khi mạng chung phải đọa vào địa ngục, chịu sự khổ não lớn. Đó là địa ngục đại khả bố, địa ngục Chúng hợp, địa ngục Viêm nhiệt, địa ngục Cực viêm, địa ngục Hắc thằng, địa ngục A tỳ, địa ngục Lỗ ma ha lý sa, địa ngục Hô hô vĩ, trong tám địa ngục lớn như vậy, cứ trong mỗi địa ngục phải chịu khổ một kiếp.
Bồ Tát Phổ Dũng lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Các chúng sanh ấy rất khổ đau. Nay con đối với sự khổ ấy không nở lòng mà nghe cho được.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền vì Bồ Tát Phổ Dũng nói bài kệ tụng:
Ta nói về địa ngục
Ngươi sợ không nỡ nghe
Sự khổ não địa ngục
Chúng sanh tự tạo nghiệp
Nếu làm các nghiệp thiện
Sẽ được quả an lạc
Còn tạo các nghiệp ác
Phải bị báo khổ não
Sống khổ, chết cũng khổ
Bị sầu khổ trói buộc
Không tạo các nhân vui
Kẻ ngu thường khổ não
Người trí được an lạc
Tin vào pháp đại thừa
Niệm Phật, trí tối thượng
Mãi không đọa ác đạo
Phổ Dũng, người nên biết
Nghiệp mê các đời trước
Gieo chút ít nhân lành
Đạt được quả to lớn
Như đời gieo lúa mạ
Trăm hạt không mát một
Nhân lành sanh Cõi Phật
Được quả cũng như vậy
Bậc trí tu pháp thiện
Xa lìa các nhân khổ
Tạo thành gốc các đức
Được an lạc tối thượng
Nếu hay thí bình đẳng
Một chút ít thiện pháp
Ở trong tám vạn kiếp
Được giàu có to lớn
Bất cứ sanh ở đâu
Thường nhớ làm bố thí
Nhờ cúng dường Tam Bảo
Quả báo tăng vô tận.
Lúc đó, Bồ Tát Phổ Dũng nghe Đức Phật nói bài kệ tụng xong, liền bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao đối với chánh pháp đại tập hội này, có thể biết rõ để lắng nghe và thọ trì?
Đức Phật bảo: Này Phổ Dũng! Nếu ai đối với mười hai hằng hà sa số Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác mà có thiện căn tròn đầy thì liền được nghe chánh pháp đại tập hội này.
Bồ Tát Phổ Dũng lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Làm sao để có thể được thiện căn tròn đầy như vậy?
Đức Phật dạy: Này Phổ Dũng! Nếu ai đối với tất cả các Đức Như Lai mà có tri kiến bình đẳng, thì liền có đầy đủ thiện căn.
Bồ Tát Phổ Dũng lại bạch: Làm sao có thể đối với tất cả các Đức Như Lai có được tri kiến bình đẳng?
Đức Phật dạy: Nếu ai đối với Pháp Sư mà tôn trọng cung kính thì người đó có thể đối với các Đức Như Lai, có tri kiến bình đẳng.
Bồ Tát Phổ Dũng lại thưa: Nhưng Pháp Sư như thế nào là được tôn trọng, cung kính?
Đức Phật dạy: Nếu ai đối với đạo xuất thế mà phát tâm hướng đến thì người ấy chính là Pháp Sư được tôn trọng cung kính.
Này Phổ Dũng! Những việc như vậy đều có thể làm cho thiện căn tròn đầy.
Đức Phật bảo: Này Phổ Dũng! Chánh pháp đại tập hội này có công đức lớn, lợi ích tất cả. Nếu ai có thể lắng nghe, thọ trì, biên chép, đọc tụng thì người ấy được phước đức to lớn không thể tính toán.
Này Phổ Dũng! Điều ấy chính là khiến cho bốn phương, cứ mỗi một phương đều có mười hai hằng hà sa số các Đức Như Lai, bậc Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, đều trụ trong mười hai kiếp, nói chánh pháp đại tập hội này. Nên công đức của sự lắng nghe và thọ trì không thể cùng tận.
Lại nữa, trong bốn phương đều có hằng hà sa số Đức Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác như trên, đều trụ số kiếp như trên, nói về công đức của sự biên chép, thơ tả này, cũng không thể cùng tận.
Lại nữa, trong bốn phương, cứ mỗi phương đều có hằng hà sa số Đức Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác như trên, đều trụ số kiếp như trên, nói về công đức của sự biên chép, thơ tả này, cũng lại không cùng tận.
Bồ Tát Phổ Dũng lại bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Cúi mong Đức Thế Tôn lược nói về số lượng phước đức của sự đọc tụng như thế nào?
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ tụng:
Nếu ai hay đọc tụng
Một bài kệ bốn câu
Phước đức họ đạt được
Cùng với tám mươi bốn
Hằng hà sa số Phật
Giống nhau không có khác
Huống chi lại một lòng
An trụ nơi chánh pháp
Phước họ được vô tận
Chư Phật sanh ra đời
Tuyên nói vô biên pháp
Nhưng rất khó được gặp.
Bấy giờ có mười tám Câu đê chúng Ni Kiền Đà, đi đến chỗ Phật, đều vào trong hội, họ đồng ngồi xuống một chỗ và nói như vậy: Này Cù Đàm! Chúng tôi hơn Ông!
Như vậy cho đến ba lần họ đều nói rằng: Chúng tôi hơn Ông! Khi ấy Đức Phật bảo chúng Ni Càn Đà: Chỉ có Đức Phật Như Lai mới được gọi là bậc chiến thắng chơn thật, ngoài ra đối với tất cả xứ, không ai có thể hơn Ngài.
Ni Càn Đà nói: Chỉ có một mình Cù Đàm, sao gọi là hơn được?
Đức Phật đáp: Ni Càn Đà các ngươi nghĩ rằng mình hơn thì đó là cái thấy điên đảo, chẳng phải là cái thấy chân thật. Các ngươi lấy gì để nói mình hơn, như lời khoe khoang của các ngươi. Khi ấy chúng Ni Càn Đà đều im lặng lấm lét nhìn nhau.
Đức Phật bảo: Các ngươi nên biết, chỉ có Đức Phật Thế Tôn đối với tất cả chúng sinh, hoặc đã nhập vào trí huệ Phật, hay chưa nhập vào trí huệ Phật, hoặc lợi căn hay độn căn, Ngài đều độ thoát, bình đẳng lợi ích, không có sai khác. Cho nên mới nói không ai hơn Ngài.
Các ngươi hãy khéo suy nghĩ, đối với các khổ bức bách chính thân tâm của mình còn không thể biết được làm sao đối với vấn đề ấy mà tự cho là thắng?
Nay Ta chỉ cho các ngươi chánh pháp quảng đại vi diệu của Chư Phật.
Các chúng Ni Càn Đà nghe Đức Phật nói như vậy, bỗng nhiên bừng bừng tức giận, sanh tâm bất tín.
Bấy giờ Thiên chủ Đế Thích đang ở tại Thiên Pháp Đường, dùng thiên nhãn xem thấy, liền cầm chày kim cang bước vào trong hội, muốn đập nát họ.
Các chúng Ni Càn Đà thảy đều kinh hãi, sanh tâm sầu não, khóc lóc thật lâu. Ngay lúc đó, Đức Thế Tôn ở trong đại chúng, ẩn thân không hiện.
Các chúng Ni Càn Đà khi ấy đối với Phật Thế Tôn mới sanh tâm chiêm ngưỡng, bỗng không thấy Đức Phật, họ càng thêm sầu khổ, liền nói bài kệ tụng:
Thí như người ở riêng
Trong đồng hoang, không tịch
Không cha cũng không mẹ
Hãi hùng không ai cứu
Như sông rạch không nước
Cá làm sao bơi được
Cây cối đã chặt đứt
Chim bay lấy gì đậu
Nay chúng tôi sợ hãi
Khổ đau cũng như vậy
Không thấy Phật Thế Tôn
Ai cứu hộ chúng tôi.
Bấy giờ các chúng Ni Càn Đà, nói kệ tụng ấy xong, muốn từ tòa đứng dậy, khi hai gối họ vừa quì xuống đất, ngay chỗ ấy bỗng phát ra tiếng nói lớn, chấn động tất cả đại chúng nhân thiên.
Lúc ấy các Ni Càn Đà đều nghĩ rằng: Đức Như Lai, bậc lưỡng túc tôn tối thắng, xin Ngài từ bi cứu hộ chúng con.
Khi ấy, Đức Thế Tôn tức thì hiện thân, ngồi lại chỗ cũ, bảo Bồ Tát Phổ Dũng: Ngươi có thể thuyết pháp để hóa độ các chúng Ni Càn Đà này.
Bồ Tát Phổ Dũng bạch Đức Phật: Không thể được, Bạch Thế Tôn! Thí như núi chúa Tu Di, thù diệu, vòi vọi, có hòn núi nhỏ đứng bên cạnh, làm sao có thể nói rằng hai núi bằng nhau. Nay Đức Phật Thế Tôn đang ở trong đại chúng, bảo con thuyết pháp cho họ, cũng giống như vậy.
Đức Phật bảo: Thôi đi! Thôi đi!
Này thiện nam tử! Đức Như Lai phương tiện khéo léo, đối với mười phương Thế Giới, tùy theo người nói, đều do nguyện lực từ bi của Đức Như Lai tạo ra. Vì nếu các chúng Ni Càn Đà này ưa thích ta thì ta sẽ vì họ nói pháp yếu tối thượng.
Này Phổ Dũng! Nay ngươi có thể du hành mười phương Thế Giới thân cận các Đức Phật để tuyên dương giáo hóa.
Bồ Tát Phổ Dũng bạch Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Sức thần thông của con rất yếu kém. Nếu chẳng nhờ lòng đại từ bi của Phật, chỉ riêng thần lực của con, thì con không thể làm được gì cả.
Đức Phật bảo: Nay ngươi hãy dùng sức thần thông của chính mình và thần lực của Phật, như vậy mới có thể du hành mười phương. Bồ Tát Phổ Dũng vâng theo thánh chỉ của Phật, liền từ tòa đứng dậy, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, bỗng ở trong hội ẩn thân không hiện.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các chúng Ni Càn Đà: Các ngươi nên biết, sanh là khổ lớn, do sanh khổ cho nên có ra các sự sợ hãi. Vì chúng sanh có sự lo sợ về bệnh, vì có lo sợ về bệnh, nên có lo sợ về già, vì có lo sợ về già nên có lo sợ về chết.
Sanh vì sao mà sợ?
Vì nó bị các khổ bức bách. Do đó sanh làm nhân sanh ra các lo sợ.
Nếu pháp sanh không có thì làm gì có lo sợ?
Do đó mà có lo sợ về nạn ra nhạ, lo sợ nạn thủ ra, lo sợ nạn ác độc, lo sợ nạn lửa, lo sợ nạn nước, lo sợ nạn gió, thậm chí lo sợ các nạn sấm chớp, mưa đá và tự tạo sự lo sợ về các nghiệp bất thiện. Những lo sợ như vậy do sanh mà có. Nếu hiểu pháp sanh liền xa lìa các sự lo sợ.
Bấy giờ Đức Thế Tôn vì các chúng Ni Càn Đà lược nói pháp lo sợ này xong, khi ấy các chúng Ni Càn Đà hoát nhiên khai ngộ, hối hận lỗi lầm, tự trách mình, đồng bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Chúng con ngu si nên sanh ra cái thấy bất chánh, quay lưng lại với con đường chân thật, chống lại chánh pháp của Phật, tạo lỗi sâu nặng, cúi mong Đức Phật từ bi, nhiếp thọ cho chúng con. Khi họ nói như vậy xong, có tám mươi Câu Đê chúng Ni Càn Đà đồng phát tâm vô thượng bồ đề.
Ngay lúc đó mười tám Câu Đê chúng Đại Bồ Tát đều được viên mãn Thập Địa, đồng thời các vị đều dùng sức thần thông của mình hiện ra các thứ thần biến, và hiện vô số thân Phật, thân Bồ Tát, thân Duyên Giác, thân Thanh Văn, cho đến thân các loại Thiên, Nhân, Long, Thần ở các nơi xong, mỗi vị lại tự biến tòa hoa sen báu, mỗi tòa đều chia đều một nửa, có Phật ở hai bên. Các vị đảnh lễ dưới chân Đức Phật xong đều ngồi vào tòa của mình.
Bấy giờ Đức Thế Tôn Giáo hóa cho các chúng Ni Càn Đà xong, liền dùng phương tiện thiện xảo, khéo léo thuyết pháp, tâm an trụ nơi Tam Ma Hê Đa Tam Muội duỗi cánh tay sắc vàng, trải qua bảy ngày đêm, cho đến lúc Bồ Tát Phổ Dũng du hành khắp mười phương Thế Giới, rộng làm các việc Phật sự xong, đã trở về quốc độ của mình.
Khi ấy Bồ Tát Phổ Dũng từ trên Cõi Phật Liên Hoa Thượng, nhanh như thời gian lực sĩ co duỗi cánh tay, đi đến trước Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, nhiễu bên hữu ba vòng, rồi đứng qua một bên.
Bấy giờ Đức Thế Tôn ra khỏi tam muội chánh định rồi Bồ Tát Phổ Dũng bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Con nhờ vâng theo lời dạy của Phật đi đến mười phương Thế Giới, dùng sức thần thông của chính mình, đi qua chín mươi chín ngàn Cu đê Cõi Phật, con dùng sức thần thông của Phật lại đi qua một trăm ngàn Cu đê Cõi Phật, cho đến cuối cùng đến Thế Giới Liên Hoa Thượng ở phương dưới, trong đó trải qua tám ngàn Cu đê Cõi Phật, thấy các Đức Phật ấy hiện đại thần thông.
Con lại trải qua chín mươi hai ngàn Cu đê Cõi Phật, thấy các Đức Như Lai hiện đang vì chúng sanh nói Diệu Pháp sâu xa.
Con lại trải qua tám mươi hai ngàn Cu đê Cõi Phật, trong một lúc thấy tám mươi hai ngàn Cu đê Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, xuất hiện ở đời. Lúc đó con cung kính cúng dường từng vị Phật một.
Con lại trải qua ba mươi chín Cu đê Cõi Phật, thấy ba mươi chín ngàn Cu đê Đại Bồ Tát, đồng lúc xuất hiện đều chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Con liền đối với các Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, lúc mới thành đạo ấy đều cung kính lễ bái, cúng dường. Con liền dùng sức thần thông của chính mình, ẩn thân không hiện nữa.
Con lại trải qua sáu mươi Cu đê Cõi Phật thấy các Đức Như Lai, con đều cung kính tất cả.
Con lại trải qua một trăm Cu đê Cõi Phật thấy các Đức Phật ấy nhập Niết Bàn. Lúc đó, con lại cung kính cúng dường từng vị một. Từ đó, lại trải qua chín mươi lăm Cõi Phật, con biết các Đức Như Lai ấy đều diệt độ đã lâu, tất cả chánh pháp đều sắp hoại diệt.
Lúc đó con tự thầm nghĩ: Chánh pháp của Đức Phật này sắp hoại diệt, thật là đau khổ biết bao.
Khi nghĩ như vậy xong, tâm con sanh ra sự xót thương lớn. Bấy giờ lại có Chư Thiên ở Cõi Dục Giới, Sắc Giới, loài Người, loài Rồng, Thần, Dạ Xoa … thảy đều hết sức sầu não.
Con lại thấy trong số đó có một Cõi Phật, chánh pháp của Ngài diệt tận đã lâu, kiếp hỏa thiêu đốt từ phía Tây cho đến đại địa, Tu Di Sơn Vương, Biển cả sông ngòi, tất cả cây cỏ, thảy đều cháy sạch, chẳng còn gì cả, chỉ có hư không mênh mông vô tận.
Con đi qua cõi ấy xong, liền đến phương dưới, trong một Thế Giới, thấy trăm ngàn Cu đê Đức Như Lai đều ngồi trên tòa hoa sen báu. Con lại thấy bốn phương cũng giống như vậy. Các Đức Phật ấy, đều hiện trong thuyết pháp hóa độ cho các chúng sanh.
Bạch Thế Tôn! Lúc con đã đến Cõi Phật ấy xong, liền nghĩ như vậy: Nay Cõi Phật này tên gọi là gì?
Khi ấy có một Đức Phật nói với con rằng: Này thiện nam tử! Cõi Đức Phật này hiện nay tên là Liên Hoa Thượng.
Lúc ấy con liền hỏi tên của Đức Thế Tôn, vị hóa chủ là gì?
Đức Phật ấy trả lời: Tên Ngài là Liên Hoa Tạng Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Ngay lúc đó, con liền đảnh lễ, một lòng cung kính, bạch rằng: Nay con thấy trăm ngàn Cu đê Na Dữu Đa Phật, mỗi vị Phật đều ngự tòa hoa sen báu, nhưng con chẳng biết vị nào tên là Phật Liên Hoa Tạng. Cúi mong Ngài chỉ cho con Đức Thế Tôn Hóa Chủ.
Khi ấy đức Liên Hoa Tạng Như Lai ở trong nhiều vị Phật bảo con rằng: Này thiện nam tử! Đức Phật Liên Hoa Tạng chính là ta.
Ngài nói lời ấy xong thì các Đức Phật khác bỗng nhiên biến mất, ẩn thân Như Lai, hiện tướng Bồ Tát. Ngay lúc ấy con chỉ thấy Đức Như Lai Liên Hoa Tạng vị hóa chủ, Đức Phật Thế Tôn đang ở giữa đại chúng, tướng tốt, oai thần, không ai hơn Ngài con liền lấy đầu mặt đảnh lễ cung kính.
Lúc ấy, Đức Phật chỉ tòa Liên Hoa bảo con rằng: Này thiện nam tử! Hãy ngồi vào tòa này.
Khi ấy, con ngồi vào tòa xong thì liền thấy Đức Phật đó ở hai bên con, con lại thấy vô lượng tòa liên hoa báu, thù diệu, trang nghiêm, hết sức hy hữu.
Con bỗng nghĩ rằng: Những tòa như vậy vì sao trống không chẳng có ai ngồi?
Con mới hỏi Đức Phật ấy.
Ngài đáp rằng: Này thiện nam tử! Những tòa như vậy đều là bất khả tư nghì, được tạo ra bởi công đức thượng diệu, chẳng phải người có ít thiện căn mà thành tựu được. Nếu ai đối với Phật Pháp phần mà chưa vào được, vẫn không thể thấy, huống chi lại có thể lên ngồi trên ấy được.
Lúc đó con lại hỏi Đức Thế Tôn: Phải gieo trồng những thiện căn gì mới có thể ngồi những tòa ấy?
Ngài trả lời: Này thiện nam tử! Nếu ai có thể đối với chánh pháp đại tập hội này mà thỉnh thọ trong chốc lát, nhờ thiện căn ấy nên được lên ngồi tòa này. Huống chi người ấy lại có thể biên chép, đọc tụng và thường tu tập.
Này thiện nam tử! Trong thời quá khứ cách đây vô lượng kiếp ngươi đã có thể theo trí chánh pháp đại tập hội như vậy. Nếu không nhờ vào năng lực thiện căn ấy ngươi cũng không thể nào đến được nước của ta, huống chi lại có thể thấy được tòa này và muốn lên ngồi trên ấy.
Khi Đức Phật nói lời đó xong, con liền thưa rằng: Đúng vậy, đúng vậy! Bạch Thế Tôn!
Con lại hỏi Ngài rằng: Chánh pháp đại tập hội này có bao nhiêu công đức mà có thể sanh ra các thiện pháp?
Bấy giờ Đức Như Lai Liên Hoa Tạng cũng phóng ra luồng ánh sáng hy hữu, thanh tịnh, vi diệu, chiếu khắp các Đức Phật trong hội rồi bảo con rằng: Này thiện nam tử! Ngươi là bậc Đại Bồ Tát, được đại thế lực, trí huệ vô ngại, nên đối với tất cả các Cõi Phật xưng dương Phật sự cho các chúng sanh. Trước đây ngươi đã từng hỏi Đức Như Lai Thích Ca ở Thế Giới Ta Bà rồi, nay lại đem pháp ấy hỏi ta. Ta cũng sẽ phân biệt nói cho ngươi rõ.
Thí như có người lấy hạt mè rải đầy trong bốn đại châu, như thế hợp nhau trở thành một khối, vậy có nhiều chăng?
Con liền thưa rằng: Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.
Đức Phật lại nói: Giả sử có người lấy một hạt mè đem để ở chỗ khác. Như vậy, cứ lấy từ hạt này đến hạt khác, người ấy muốn biết số lượng bao nhiêu.
Này thiện nam tử! Ý ngươi thế nào?
Người ấy có thể biết được số lượng bao nhiêu chăng?
Con lại thưa rằng: Không thể, Bạch Thế Tôn! Người ầy tuy có hết sức trải qua nhiều kiếp đi nữa, cũng không thể nào biết được số lượng nhiều như vậy.
Ngài lại bảo con: Này thiện nam tử! Chánh pháp đại tập hợp này có bao nhiêu phước đức cũng lại như vậy, không thể dùng toán số, thí dụ mà có thể biết được. Chính vì như vậy mà nói số lượng, cứ mỗi một đơn vị đều là Chư Phật Như Lai.
Lại trải qua Cu đê na dữu đa kiếp, xưng dương tán thán đại chánh pháp này, công đức của sự thỉnh thọ cũng không cùng tận. Huống chi có người biên chép, đọc tụng thì được phước rất nhiều.
Con lại hỏi Ngài: Nếu có người biên chép đại chánh pháp này, được bao nhiêu phước đức?
Cúi mong Đức Thế Tôn nói tóm lược cho con rõ.
Khi ấy Ngài dạy: Này thiện nam tử! Thí như ba ngàn đại thiên Thế Giới có bao nhiêu cây cỏ rừng rú đem chặt bằng một lóng tay, cứ mỗi lóng như vậy là một vị Chuyển Luân Thánh Vương.
Lại như ba ngàn đại thiên Thế Giới có bao nhiêu đất đá đều đập nát thành vi trần. Cứ một hạt vi trần như vậy đều là một vị Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu số phước đức bằng như vậy mà các vị toác sư muốn biết con số là bao nhiêu.
Người cho rằng họ biết được số lượng chăng?
Khi ấy con đáp rằng: Không thể được, bạch Thế Tôn! Phước đức như vậy, tuy có nhiều toán sư cũng không thể biết được.
Ngài lại bảo con: Nếu có ai biên chép chánh pháp đại tập hội này thì phước đức họ đạt được cũng lại như vậy, lại còn nhiều hơn trước, không thể dùng toán số, thí dụ mà có thể biết được. Chỉ cần có thể đối với chánh pháp này mà biên chép chỉ một chữ thôi, thì phước đức người ấy đạt được còn hơn người trước.
Huống chi lại có người đối với chánh pháp này mà thọ trì một bài kệ bốn câu, thì công đức của người ấy không thể tính toán, tất cả kho báu thường được xuất hiện, tất cả phiền não đều được tiêu diệt, tất cả đuốc pháp chiếu sáng cùng khắp, tất cả thiên ma không thể chiến thắng, tất cả Bồ Tát đều quán thấy hết, tất cả pháp môn đều có thể vào được.
Đức Phật ấy nói lời đó xong, con liền thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sanh có thể tu chánh hạnh đối với chánh pháp đại tập hội như vầy mới được gọi là Phạm hạnh tối thượng, Phạm hạnh ấy chính là hạnh Như Lai.
Nếu ai siêng tu tập không gián đoạn, người ấy liền được hằng trăm Đức Phật suốt cả ngày đêm thường hiện trước mặt. Nếu thấy được Như Lai liền vào Cõi Phật, đã vào Cõi Phật thì tất cả pháp tạng thảy đều có thể hiểu rõ.
Khi con nói lời ấy, Đức Phật Liên Hoa Tạng lại bảo con: Này thiện nam tử! Chư Phật Như Lai đúng thời mới xuất hiện một lần, nếu ai gặp được thì thật là khó. Các Ngài nói chánh pháp này cũng rất là khó, được nghe chánh pháp ấy rồi thọ trì lại càng khó hơn.
Vì sao vậy?
Vì nếu có người nghe chánh pháp này thì họ trong sáu mươi vạn, sáu ngàn, tám mươi kiếp, hoặc được trí túc mạng, hoặc làm Chuyển Luân Vương, Đế Thích Tịnh Quang Thiên, Đại Phạm, Chủ Thế Gian … không hủy hoại chánh tín, không đọa vào các đường ác, không sanh vào A Tu La, không đấu tranh bằng đao gậy.
Họ lại xa lìa sự ngu si, được trí huệ lớn, tướng tốt đoan nghiêm, giống như Chư Phật, từng sắc tướng một hoàn toàn không sai khác, không làm quyến thuộc với sự si não và bị chúng trói buộc, thường lìa bệnh khổ, thường được viên mãn, không còn tái sánh, không khởi sân hận, lại thường xa lìa tất cả sự nghèo khổ, giống như Luân vương hưởng thọ khoái lạc, các căn viên mãn, nhẫn nhục đầy đủ cho đến lúc lâm chung, chánh niệm hiện tiền, tâm không điên đảo.
Ngay lúc đó ở phương Đông có mười hai hằng sa số Đức Phật ở trước mặt. Phương Nam có hai mươi hằng hà sa số Đức Phật, Phương Tây có hai mươi lăm hằng hà sa số Chư Phật, phương Bắc có tám mươi hằng hà sa số Chư Phật. Phương trên có chín mươi ngàn Cu đê Đức Phật, phương dưới có hàng trăm Cu đê Đức Phật.
Các Đức Phật như vậy đều hiện ra trước mặt, an ủi người đó, hoặc nói rằng: Này thiện nam tử! Chớ có sợ hãi, vì trước đây ngươi đã có công đức lớn, để mà nương tựa.
Nay ngươi thấy trăm ngàn Cu đê Na Dữu Đa hằng hà sa số Phật Thế Tôn chăng?
Người ấy thưa rằng: Dạ, có thấy.
Khi ấy Chư Phật nói: Này thiện nam tử! Các Đức Như Lai này, vì sức công đức của ngươi nên đều đến đây.
Người ấy lại thưa: Nay con nhờ sức thiện căn gì mà được như vậy?
Các Đức Phật ấy nói: Nhờ năng lực thiện căn của chánh pháp đại tập hội mà từ lâu ngươi đã nghe được.
Người ấy lại thưa: Như một mình con được nghe chánh pháp mà còn được vô lượng công đức như vậy, huống chi có thể khiến cho tất cả cõi hữu tình đều được nghe hết.
Khi Đức Như Lai Liên Hoa Tạng nói rộng như vậy, và người sắp mạng chung ấy thấy các Đức Phật xong, Ngài lại bảo con rằng: Này thiện nam tử! Nếu người nào được nghe một bài kệ bốn câu của đại chánh pháp này, cùng với người cúng dường, mười ba hằng hà sa số Đức Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác, công đức đạt được hoàn toàn không có sai khác gì cả.
Lại nữa, nếu có người được nghe chánh pháp đại tập hội này, phước đức đạt được, thí như trùm khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới toàn là hạt mè.
Nếu số lượng hạt mè ấy đều là những Chuyển Luân Thánh Vương. Giả sử có người dùng các châu báu để đem bố thí cho các chuyển luân ấy phước đức đạt được không bằng chỉ cúng cho một vị Tu Đà Hoàn.
Nếu cúng cho một vị Tu Đà Hoàn không bằng cúng cho số lượng Tu Đà Hoàn nhảy đầy khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới như ở trước. Nếu cúng cho số lượng Tu Đà Hoàn như vậy không bằng cúng cho một vị Tư Đà Hàm.
Nếu cúng cho một vị Tư Đà Hàm không bằng cúng cho số lượng Tư đà hàm nhảy đầy khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới như trước. Nếu cúng cho số lượng vị Tư Đà Hàm như vậy không bằng cúng cho một vị A Na Hàm. Nếu cúng cho một vị A Na Hàm không bằng cúng cho số lượng A Na Hàm nhảy đầy khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới như trước.
Nếu cúng cho số lượng A Na Hàm như vậy không bằng cúng cho một vị A La Hán nhảy đầy khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới như trước. Nếu cúng cho số lượng A La Hán như vậy không bằng cúng cho một vị Duyên Giác.
Nếu cúng cho một vị Duyên Giác không bằng cúng cho số lượng Duyên Giác nhảy đầy khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới như trước. Nếu cúng cho số lượng Duyên Giác như vậy không bằng cúng cho Bồ Tát.
Nếu cúng cho Bồ Tát không bằng cúng cho số lượng Bồ Tát nhảy đầy khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới như trước. Nếu cúng cho số lượng Bồ Tát như vậy không bằng phát tâm tịnh tín để bố thí, cúng dường, một Đức Như Lai. Nếu tín tâm cúng dường cho một Đức Như Lai không bằng tín tâm cúng dường cho tất cả các Đức Như Lai nhảy đầy khắp ba ngàn đại thiên Thế Giới như trước.
Tuy bằng tín tâm cúng dường cho tất cả các Đức Như Lai như vậy không bằng như có người đối với chánh pháp đại tập hội này mà tạm thời được nghe và thọ trì, sẽ được nhiều phước đức gấp bội người trước. Huống chi có người lại có thể biên chép, đọc tụng, thì công đức như vậy không thể tính được.
Bấy giờ Đức Phật ấy lại bảo con: Này thiện nam tử! Người có thể đối với chánh pháp này mà phát tâm tịnh tín, tuyên duyên lưu bố cho các người phàm phu đối với chánh pháp này chưa thể được nghe.
Giả như họ có nghe đi nữa thì cũng sanh tâm nghi ngờ, không tin vậy làm sao có thể nhập vào đại pháp tụ này được?
Ví như có người đi vào biển cả, mà muốn thấy được tận cùng ngằn mé của nó.
Ngươi cho rằng người ấy có thể thấy được chăng?
Con thưa rằng: Không thể được, bạch Thế Tôn! Ngài lại hỏi: Lại như có người muốn vào biển cả, dùng tay múc nước, muốn nước khô cạn.
Ngươi cho rằng người ấy thành công chăng?
Con lại thưa: Không thể được, bạch Thế Tôn! Những người ngu si ấy, tuy ở trong biển cả mà muốn biết ngằn mé, muốn khô hết nước, họ chỉ tự làm nhọc sức, chứ không thể được, càng thêm tổn thất mà thôi.
Bấy giờ Ngài bảo với con: Các kẻ phàm phu cũng lại như vậy. Đối với chánh pháp này không thể thỉnh thọ, đối với biển sanh tử, vọng sanh sự điên đảo, tăng trưởng sự ngu si, càng thêm tổn thất.
Người ấy tuy trải qua trăm ngàn Cu đê Na Hữu Da Đức Như Lai Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, vì không trồng căn lành, nên không được thấy Phật, không nghe pháp này, không được Chư Phật hộ niệm.
Nếu người có trí, có thể đối với trăm ngàn Cu đê Na Hữu Da Đức Phật, đã phát tín tâm thanh tịnh, thấy các Đức Phật sanh tâm đại hoan hỷ, mới theo Chư Phật, được nghe pháp này. Khi được nghe pháp này liền biết như thật, không sanh lòng khinh chê, hủy báng.
Người ấy được sự thiện lợi lớn, liền được Chư Phật hộ niệm. Nếu ai đối với chánh pháp này mà có thể lắng nghe, thọ trì, biên chép một bài kệ bốn câu, thì người đó sẽ sanh qua chín mươi lăm ngàn Câu Đê Cõi Phật, được sanh vào Thế Giới Cực lạc của Phật để nghe pháp, sống lâu đến tám vạn bốn ngàn kiếp.
Đức Phật Liên Hoa Tạng lại bảo con: Nếu ai đối với tội ngũ nghịch hoặc tự mình làm hay bảo người khác làm, hoặc thấy nghe mà hoan hỷ, người ấy phải thọ khổ trong năm ngục vô gián.
Nếu ai được nghe một bài kệ bốn câu của chánh pháp đại tập hội này, liền được tiêu diệt các nghiệp vô gián như vậy.
***