Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Hoa

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP HOA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẨM MƯỜI BA

AN LẠC HẠNH
 

Khi ấy, Đại Sĩ Đoàn Thủ bạch Phật: Kính bạch Thế Tôn!

Các vị Bồ Tát này đang kính ngưỡng Thế Tôn, là những vị mà sự khuyến hóa của các ngài khó ai bì kịp.

Vậy lúc nào thì nên vì tất cả chúng sinh mà giảng thuyết Kinh này?

Phật bảo Đoàn Thủ: Bồ Tát trước hết an trú trong hai pháp mới nên giảng nói Kinh này:

Một là oai nghi.

Hai là lễ tiết.

Thế nào gọi là Bồ Tát hiểu biết oai nghi?

Nếu đem tâm nhẫn nhục nhu hòa mà hộ trì tâm ý sợ sệt không tự chủ, làm cho ý chí vững vàng như đất, không thấy có người.

Tuy không thấy có người mà vẫn hành pháp, quán tướng tịch nhiên, các pháp vốn không, cũng không tưởng niệm các pháp này là khuôn phép của các hạnh, thì gọi đó là oai nghi.

Thế nào gọi là lễ tiết?

Nếu Bồ Tát không theo phụng sự cho Quốc Vương, Thái Tử, Đại Thần, quan lại, không giao tiếp với ngoại đạo, dị học, không ham chuộng học tập sách vở thế tục, ca ngợi âm nhạc, tập tục hôn phối, không gần gũi kẻ đồ tể, ngư phủ, chài lưới, thợ săn bắn chim muông, giặc cướp.

Không cùng ở nơi đông đảo ca nhạc, du hý, không làm việc cùng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ cầu quả Thanh Văn, cũng không gần gũi lễ bái, thăm hỏi, không cùng ở chung, không cùng bè bạn kinh hành, đốt hương, rải hoa, thắp đèn, trừ khi cùng đi đến hội giảng kinh, chỉ được cùng ở trong hội giảng kinh, dù có nói điều gì cũng không tham đắm, thì như vậy gọi là lễ tiết.

Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ Tát Đại Sĩ không luyến tiếc nhà cửa, tông tộc, thân thuộc, không mãi mê nghĩ tưởng đến nữ nhân khi nói Kinh Pháp cho họ, cũng không thường đến chỗ đông đảo trẻ con, nam nữ và các người khác mà nói lời êm ái về điều không nên thuyết giảng, không vì định ý riêng tư mà nói Kinh.

Không cũng đứng, cũng không cùng hẹn ước, cũng không một mình cùng một Tỳ Kheo Ni nào đi vào nhà, trừ khi nhớ nghĩ đến sự tinh tấn của Như Lai mà đi.

Nếu vì nhân duyên nói Kinh cho nữ nhân thì trong trường hợp này không làm ô nhiễm pháp vị, không làm cho họ không lãnh hội, mà chỉ rộng bàn về nghĩa lý, không cùng ở một chỗ với Sa Di, Tỳ Kheo Ni, trẻ em nam, nữ thường ưa ngồi chỗ yên tĩnh u nhã, thích nơi thanh vắng tịch liễu. Như vậy gọi là lễ tiết.

Lại nữa, Đoàn Thủ! Bồ Tát Đại Sĩ quán tất cả pháp đều là rỗng không, nhưng nếu chấp chặt như thế là rơi vào điên đảo.

Chỗ đứng của Thánh Đế là thường trụ như pháp, chuyên giữ cho thân tâm không lay, không động, không thoái, không chuyển, xả bỏ, diệt tận, chẳng sinh chẳng có, không có tự nhiên, vô vi, vô số, không có cái gì có thể có, đạt đến vô sở hữu, loại bỏ ngôn từ, không trụ vô vi, không tưởng, chẳng tưởng, chế phục các tưởng.

Giả sử Bồ Tát quán sát sâu xa tất cả pháp này, khẩn thiết tu hành những điều nên hành này thì thường trụ hai việc oai nghi, lễ tiết vậy.

Đức Thế Tôn muốn giải rõ lại ý nghĩa này nên nói bài tụng:

Nếu Bồ Tát ưa thích

Giảng nói Kinh Điển này

Thì ở vào đời sau

Dũng mãnh không khiếp sợ.

Theo oai nghi lễ tiết

Làm sáng hạnh thanh bạch

Với Quốc Vương, Thái Tử

Đại thần cùng quan thuộc

Ngoại đạo và dị học

Hạng săn bắn, ác hại

Hạn chế việc giao du

Và không cùng qua lại.

Tỳ Kheo cầu La Hán

Ngoại trừ mặt giới luật

Không gần người tự đại

Lại xa kẻ phạm cấm,

Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni

Bàn luận và chuyện vãn

Xa lìa thanh tín nữ

Không nói lời vô ích,

Hiện tại muốn đạt pháp

Phải nên dứt điều quấy

Ưa ở nơi vắng lặng

Gọi đó là oai nghi.

Nếu kẻ không chịu đến

Học hỏi về đạo pháp

Vì kẻ ấy thuyết giảng

Không sợ, không chấp trước,

Chúng sinh bị bệnh hủi

Hoặc bà con họ hàng

Người mẹ, các sắc đẹp

Đều phải nên xa lìa.

Không cùng họ gần gũi

Chỉ vun trồng cội đức

Nên bỏ việc bán buôn

Kiêu mạn, không cung kính,

Từ bỏ các trú xứ

Không để hại đến thân

Biết bao loài chúng sinh

Chớ nên ăn thịt chúng.

Dứt trừ các tội lỗi

Người vui giận oán hờn

Tành tình thường như vậy

Cũng chẳng cùng luận đàm,

Không gần kẻ giả dối

Kẻ tánh tình tự chuyên

Những người tánh như vậy

Đều phải nên xa lánh.

Người trí có cơ duyên

Vì người nữ thuyết Kinh

Không được đi một mình

Không dừng chỗ vui chơi

Nếu ra vào thôn xóm

Thường thường đi khất thực

Dẫn một bạn Tỳ Kheo

Luôn luôn nhớ tưởng Phật.

Nên Phật trước thị hiện

Oai nghi lễ tiết ấy

Ai phụng trì Kinh này

Phải siêng năng thực hiện

Kẻ thượng, trung, hạ liệt

Nếu không hành chánh pháp

Tất cả đều chí thành

Phải thường cúng dường luôn.

Trượng phu vô tưởng niệm

Kiên cố hành dũng mãnh

Không biết tất cả pháp

Cũng không thấy Niết Bàn

Của tất cả Bồ Tát

Đó gọi là oai nghi

Cũng như hành lễ tiết

Phải nên nghe xét kỹ.

Nay sẽ giảng thuyết

Giáo pháp vô vi

Tất cả không khởi

Cũng không chỗ sinh

Kiên lập ý chí

Quán chiếu nghĩa không

Đấy là trí nhân

Đã hành lễ tiết,

Người có sở niệm

Là tưởng điên đảo

Lấy không làm có

Dùng hư làm thật

Tuy có chỗ khởi

Các pháp không sinh

Do tưởng sai lầm

Mà sinh các hữu,

Tâm thường chuyên nhất

Khéo tu tam muội

Kiến lập hạnh tu

Như đảnh Tu Di

An trú như thế

Quán khắp các pháp

Là tất cả pháp

Giống như hư không.

Ví như hư vô

Đều không bền vững

Không niệm nắm giữ

Không gì xả bỏ

Pháp không xứ sở

Không có thường danh

Ấy là kẻ trí

Đã hành lễ tiết.

Sau ta diệt độ

Nếu có Tỳ Kheo

Luôn thủ hộ được

Pháp tắc như thế

Không có khiếp nhược

Tâm không khởi tưởng

Vì vô số người

Thuyết Kinh Điển này,

Bậc minh triết ấy

Theo thời quán niệm

Nếu vào phòng ốc

Việc làm cũng vậy.

Quán sát các pháp

Tất cả đều tịnh

An nhiên nói nghĩa

Mà không dao động,

Quốc chủ Đế Vương

Cùng các Thái Tử

Các Trưởng Giả khác

Và các Phạm chí

Cùng chư quyến thuộc

Muốn nghe chánh pháp

Đều cúng dường cho

Tâm đều vô dục.

Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ: Sau khi Như Lai diệt độ, người muốn nói Kinh này phải trụ trong sự an ổn. Đã trụ an ổn rồi thì lòng không dua nịnh, tâm không huyễn hoặc mới nói Kinh Pháp đã thuộc lòng, hoặc chép trên tre lụa, vì người giảng thuyết, không nói nhiều lời, cũng không nói thêm, không khinh mạn Tỳ Kheo khác.

Làm vị Pháp Sư không ca ngợi, cũng không chê bai, chưa từng nêu tên và nói lầm lỗi của Tỳ Kheo có tâm khác cầu quả Thanh Văn. Chưa từng tự cao, nói lỗi người, cũng không phỉ báng, cũng không có tâm oán ghét người trái ý mình.

Chưa từng chê bai hành giả tại gia là không có chí nguyện, không trái hạnh nguyện, cũng không khởi tưởng, đến đi an trú vững vàng oai nghi, tới lui cùng khắp. Nếu đến Pháp Hội, tự giữ thân mình, không mất oai nghi, rồi nói Kinh Pháp.

Nếu có người hỏi thì không dựa vào mà phải xa lìa pháp Thanh Văn. Có điều chỉ dạy thì làm sáng tỏ Phật tuệ.

Khi ấy Phật nói bài tụng:

Người trí luôn luôn

An trú Phật đạo

Trước ngồi an ổn

Mói nói Kinh Pháp.

Nếu phải trải tòa

Trải loại mềm mại

Biết bao nhiêu thứ

Trang trí đẹp đẽ

Thân thể thường mặc

Y phục sạch sẽ

Trong bốn chín ngày

Tập đi kinh hành,

Giống như mây đen

Ở trên hư không

Tập hợp dồn chứa

Công đức rộng lớn.

Ở nơi chỗ ngồi

Kho tàng đầy đủ

Tòa ngồi kiên cố

Bằng phẳng đẹp đẽ

Vô số tọa cụ

Nệm lông mềm mại

Đường bệ chững chạc

Trông thật tôn nghiêm.

An nhiên bước lên

Pháp tòa cao rộng

Trải tâm bình đẳng

Vì tất cả người

Quốc chủ Đế Vương

Thái tử, đại thần

Các chúng Tỳ Kheo

Và Tỳ Kheo Ni

Các Thiện Nam tử

Cùng Thiện Nữ Nhân

Theo điều ưa nghe

Vì họ rộng giảng

Trí tuệ vô cùng

Lần lượt phân tích

Giảng giải các loại

Ý nghĩa vi diệu

Theo sau hầu hạ

Thưa hỏi nghĩa lý

Bậc Thánh triết ấy.

Lại vì giải thoát

Nên nhập thần túc

Nhu hòa, nhẫn nhục

Nếu người nào nghe

Đều đắc Phật Đạo

Bậc Trí tuệ này

Đều vì tất cả

Tới lui dứt trừ

Biếng lười mệt mỏi

Vì chúng nói pháp

Thường dùng tâm từ

Chưa từng khởi lên

Ý tưởng mệt mỏi

Ngày đêm ca tụng

Pháp huấn tôn quý

Phân biệt diễn thuyết

Ức ngàn thí dụ

Ai cũng phấn khởi

Tâm của hội chúng

Không có ai dám

Khởi ý làm hại

Nếu được cúng dường

Các thức ăn uống

Giường nằm chỗ nghỉ

Y phục mền gối

Thuốc thang chữa bệnh

Thì không cầu nhiều

Không theo số đông

Cầu xin của cải

Bỏ hết phiền toái

Trụ ở tinh xá

Muốn khiến mọi người

Đều hiểu Phật Đạo

Nếu tất cả người

Đến nghe Kinh Pháp

Ta sẽ hoan hỷ

Hộ cho đại an.

Sau Phật diệt độ

Nếu có Tỳ Kheo

Tuyên dương Kinh Pháp

Không có mong cầu

Không bị chướng ngại

Không gặp khổ hoạn

Luôn luôn tinh tấn

Xa lìa các bệnh

Không thể bị chúng

Gây sự sợ hãi

Không bị đánh đập

Không ý phỉ báng

Thân không mệt mỏi

Không có hoạn nạn

Vị ấy trụ nhẫn

Được sức như thế.

Bậc Minh trí ấy

Chỗ ở an ổn

Có chỗ bảo trì

Đúng lời Phật dạy

Nếu đã ngợi khen

Trăm ức công đức

Khen ngợi tất cả

Không thể hết được.

Đức Phật lại nói với Đoàn Thủ: Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có Bồ Tát đối với Kinh Điển ấy hoài nghi không hiểu, nếu được thuyết giảng, giáo hóa mà không kiên nhẫn nghe, tánh không điều hòa và thấy Bồ Tát khác cầu đại thừa, cho là làm việc hư vọng mà phỉ báng.

Thấy Thanh Văn, Duyên Giác, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, thiện nam, tín nữ, hoặc gặp Bồ Tát mà tâm do dự, không đến gặp gỡ ngay thì Thiện Nam ấy cách xa đạo vô thượng chánh chân, không tiếp cận được với việc làm của Đấng Thiên Trung Thiên.

Giả sử cuối cùng không nhờ phước lực thì không thành Bậc Tối Chánh Giác. Bồ Tát hành ba thừa giống như Sư Tử ở trong rừng, nếu có sự do dự thì tự nhiên xa lìa, không ưa thích điều ưa thích, cũng không phải không ưa thích.

Nếu đối với chúng sinh tu hành từ bi thì đối với Đấng Như Lai đây như người cha vĩ đại, thấy các Bồ Tát nghĩ nhớ như Thế Tôn và với các tục gia chưa lìa trần cấu đều khoan hòa cung kính, giữ đúng lễ tiết, làm trong sáng ý nghĩa các pháp, không nghi ngờ, không ràng buộc, nghiêm trì tất cả pháp cẩn thận, chắc thật, vững vàng, thuận theo bình đẳng, không chấp trước Kinh Pháp.

Có điều cực vui cũng không chạy theo, ở tại trú xứ ngày đêm cung kính hộ trì Kinh này.

Này Đoàn Thủ! Đó là thực hành ba pháp. Khi nói, Bồ Tát quán rồi mới nói, tạo sự an ổn, không bị phiền não, cũng không nhiễu hại. Người nói Kinh này cùng với người học đều là bạn đạo có tâm bình đẳng của nhau.

Hoặc giảng, hoặc nghe, tin tưởng, ưa thích Kinh này, trì tụng, biên chép trên tre lụa, cúng dường, phụng sự thì phước đức không thể lường được.

Vì để cho chúng hội an trú Thế Tôn bèn nói bài tụng:

Nếu người tật đố

Lòng nhiều khúc mắc

Pháp Sư thương yêu

Không hề ghét bỏ

Có bậc Minh trí

Không tạo tham trước

Muốn đọc Kinh này

Bắt chước làm theo

Chưa từng phỉ báng

Và nói lỗi người

Cũng không rơi vào

Lỗi nghi, tà kiến

Tâm thường trong sáng

Không bị đắm chìm

Vì thương chúng sinh

Nên đắc định này

Vị an trụ ấy

Cũng luôn nhẫn nhục

Người ấy thường ngăn

Tự cao tự đại

Luôn luôn giảng tụng

Kinh Điển của Phật

Chưa từng vì đó

Sinh ra mệt mỏi

Có Bồ Tát nào

Ở mười phương cõi

Thương yêu chúng sinh

Ở đời khởi hạnh

Tùy thuận cung kính

Học tập Thánh tuệ

Đều nên nhớ nghĩ

Là Thế Tôn ta

Nghĩ nhớ Chư Phật

Bi trí cao tột

Nhớ các Bồ Tát

Như nhớ mẹ cha

Nếu có cầu đạo

Thì không dục tình

Vứt bỏ ngã chấp

Và tâm tự đại

Giả sử nghe rõ

Tượng pháp như vậy

Các bậc minh trí

Sẽ tự hộ trì

Việc làm an ổn

Thường được an định

Sẽ chứng quả Phật

Cứu vô số chúng.

Đức Phật lại bảo Đoàn Thủ: Sau khi Như Lai diệt độ, nếu Bồ Tát Đại Sĩ phụng hành Kinh này, luận đúng thời tiết thì Tỳ Kheo Bồ Tát ấy phải thực hành từ bi, hướng đến các hàng bạch y, người xuất gia, Phạm chí, tất cả quần sinh, người hành đạo Bồ Tát, thường nghĩ đến các vị hành đại thừa đời quá khứ mà khéo léo phương tiện diễn nói ý nghĩa Chân Đế.

Nếu người nghe không biết, không hiểu, không vui, không tin, không thức tỉnh, không lĩnh hội được, thì tự thán rằng: Ta phải đạt được đạo vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác, đầy đủ sức oai thần, mới được tự tại! Đoàn Thủ nên biết!

Ta thấy những việc này: Sau khi Phật diệt độ, Bồ Tát có bốn sự việc khi Thuyết Pháp không phiền bực.

Bốn việc ấy là gì?

1. Được các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, thiện nam, tín nữ cung kính.

2. Vua Chúa, Thái Tử, Đại Thần, Quan Lại, Nhân Dân trong nước thấy đều cúng dường.

3. Trưởng Giả, Phạm chí đều làm theo.

4. Vô số Thần Minh, Thiên Tử trên không nghe thuyết Kinh và Trời, Rồng, Quỷ Thần thị vệ sau họ đều ủng hộ.

Đó là bốn việc. Hoặc khi vào huyện, ấp hay lúc trở về nhà, cả ngày 1ẫn đêm mọi người đều đến hỏi Kinh Pháp.

Nếu vì sự giải thoát mà phân biệt chỗ quy hướng thì ai cũng hoan hỷ.

Vì sao?

Đoàn Thủ nên biết, vì đều do Phật đã gia ân kiến lập Kinh này. Phật quá khứ, vị lai và hiện tại đều do Kinh này xuất sinh và cũng đều hộ trì Kinh này. Nếu ở Thế Giới kham nhẫn được nghe phẩm Chánh Pháp Hoa cùng nghe tên Kinh này thì thật là khó.

Này Đoàn Thủ! Thí như Chuyển Luân Thánh Vương có năng lực lớn, oai đức trùm khắp, cai trị thuần hòa. Các nước thù địch khác chưa chịu thần phục, không dám dòm ngó. Chuyển Luân Vương hưng binh đi chinh phạt nhưng Chư Hầu không phục, muốn chống trả lại nước lớn.

Khi ấy, các tướng sĩ dũng mãnh ra sức đánh thắng, đối phương khuất phục. Nhà vua vui mừng, xét công ban thưởng, phong cho thành ấp, ban cho ruộng vườn, bảy báu, ngọc ngà, voi ngựa, xe cộ, nam nữ, nô tỳ. Người có công đức thù nhất, vua lấy viên minh châu trong búi tóc ban cho.

Vì sao?

Vì bề tôi làm cho đất nước cường thịnh, văn minh lâu dài. Như Lai Chánh Giác cũng lại như thế, là Đại Pháp Vương của chân lý tối cao, tự hàng phục tâm mình, dùng pháp giáo hóa, dùng đức trừ hại, dùng tuệ chiến đấu, hàng phục vô số chúng pháp vương khác.

Vô lượng trăm ngàn Kinh Điển ý nghĩa trọng yếu đều ban bố cho quần sinh, không hề che giấu. ra lệnh đắp thành bằng phẳng để nhìn thấy ma quân, có thể cùng quân ma chiến đấu, dùng pháp Hiền thánh phá dâm, nộ, si, hàng phục ma quân và đồng bọn, hết họa ba cõi, đạt đến diệt độ.

Việc làm nhanh chóng và rất dũng mãnh, rốt cùng không hoại diệt cũng không chắc thật, vì do các yếu tố hư ngụy tạo thành thế gian này, như tất cả hiện tượng, nơi chốn đều là nhân duyên.

Khắp các Thế Giới từ xưa đến nay không có ai tin Kinh Pháp Hoa này, mà chưa từng diễn nói thông suốt. Sở dĩ nói được là do sự thông tuệ và lòng đại bi, như viên minh châu trong búi tóc của bậc Đại Thánh đế, vì là pháp quan trọng đệ nhất của Đức Thế Tôn, nương vào đó mà tiến bước tu hành nên Đức Như Lai cho nghe Kinh Điển thâm diệu này.

Từ xưa đến nay, các pháp tu hành đã được nói ra thì Kinh này là pháp tối thắng để tiêu trừ tất cả hoa duyên khởi. Giống như bậc Thánh đế trân trọng giữ gìn viên minh châu trong búi tóc, lâu lắm mới lấy ra ban cho người có công đặc biệt.

Như Lai cũng thế, sớm tối trân trọng giữ gìn pháp vô cùng mầu nhiệm không tỳ vết, đến nay rất lâu, là pháp đứng đầu các pháp. Hôm nay vì thương xót nên mới diễn bày rộng rãi.

Đức Thế Tôn muốn diễn bày lại ý nghĩa trọng yếu nên nói tụng:

Nay đây Như Lai

Hiện sức từ bi

Vì thương chúng sinh

Mắc vòng đau khổ

Trong cảnh dại khờ

Nên phân biệt nói

Kinh Điển tối tôn

Cầu pháp Bồ Tát

Hoặc người xuất gia

Hay hàng tại gia

Nếu nghe Kinh này

Hiện khắp tất cả

Lòng sinh khiếp sợ

Chẳng được hủy báng

Ta lúc ban đầu

Khi đắc quả Phật

Cũng như Như Lai

Ở đây hôm nay

Nếu vừa được nghe

Kinh tôn quý ấy

Thì liền kiến lập

Vô số phương tiện

Như Chuyển Luân Vương

Thế lực mạnh mẽ

Chiến đấu hàng phục

Các Quốc Vương khác

Đắc thắng ban thưởng

Voi, ngựa, xe, kho

Lại thêm phong ấp

Thành quách đất đai

Hoặc được ban cho

Xuyến báu tay chân

Màu sắc vi diệu

Vàng ròng quý báu

Trân châu dạ quang

Xa cừ, ngọc bích

Đủ loại đặc thù

Của lạ kỳ diệu

Bao nhiêu tài vật

Đều đem ban cho

Khiến cho mọi người

Mừng vui kinh ngạc

Thấy việc lập công

Lạ chưa từng có

Sau cùng mở tóc

Lấy minh châu cho

Phật cũng như thế

Nay là Pháp Vương

Với sức nhẫn nhục

Tuệ âm vô cực

Thường hành từ mẫn

Khởi hạnh cứu giúp

Dùng pháp giáo hóa

Tất cả thế gian

Thấy các chúng sinh

Bị họa ưu não

Giảng nói kính pháp

Số tới ức ngàn

Hiểu rõ chúng sinh

Hợp phương tiện nào

Mà chúng ngày nay

Cho là rốt ráo

Khi ấy Pháp Vương

Bậc Thánh Tối Thượng

Phân biệt Kinh Điển

Trăm ngàn vạn ức

Vì biết chúng sinh

Trí chí mạnh mẽ

Nên nói Kinh này

Như ngọc trong tóc

Vào thời mạt thế

Kinh này ở đâu

Tất cả Kinh khác

Đều không sánh kịp

Người trí nghe được

Kính ngưỡng Kinh này

Chưa từng xem nhẹ

Tri hành thâm sâu

Bậc trí sáng nghe

Pháp ta diễn nói

Tượng pháp như vậy.

Sau Phật diệt độ

Sẽ nương vào đó

Ai có chí cầu

Đạo tôn quý này

Đều được thọ ký

Như Phật đã dạy

Người ấy chưa từng

Có tỳ vết dục

Không có tật bệnh

Và các họa tai

Vào thời sau này

Ở đời tương lai

Sẽ thành đạt được

Chân tuệ vô thượng

Thù thắng diệu kỳ

Đầy đủ hết thảy

Cả bốn bộ chúng

Cũng được gặp ngỡ

Nếu có người nghe

Trừ được các 1ậu

Khen pháp vô vi

Chắp tay hướng về

Thân mình chói sáng

Chiếu ánh hào quang

Do phụng Kinh này

Đạt được như thế

Đạt thành Chánh Giác

Rồi chuyển pháp luân

Thì thấy rộng sâu

Và thấy tối thắng

Trong mộng nghe thấy

Trăm tướng phước đức

Màu sắc vàng ròng

Kinh Phật đã nói

Nếu được nghe rồi

Nói cho chúng hội

Cùng các thân tộc

Thảy đều đầy đủ

Lại được hộ trì

Trừ bỏ tất cả

Như tỉnh cơn mộng

Thấy được như vậy

Bỏ hết xa lìa

Xuất gia hành đạo

Đều được đi đến

Đạo Tràng của Phật

Nơi ấy chính là

Pháp Tòa Sư Tử

Vậy là cầu đạo

Đạt được lợi ích

Các thứ bảy báu

Tập hợp tại đây

Tu thì phụng sự

Như Lai tối thắng

Đã đắc Phật đạo

Giữ lệ truyền bá

Liền chuyển pháp luân

Không có các lậu

Vì hàng đệ tử

Giảng nói Kinh pháp

Chẳng thể nghĩ bàn

Trong ngàn ức kiếp

Phân biệt giảng thuyết

Giáo pháp vô lậu

Giáo hóa vô số

Vạn ức chúng sinh

Trong mộng thấy được

Hiện tượng như thế

Đúng thời diệt độ

Không còn sinh tử

Đoàn Thủ nên biết

Người có tâm đạo

Đã được giáo hóa

Nhiều không kể xiết

Vào thời mạt thế

Cầu tôn pháp này

Phân biệt rộng nói

Diễn giải tự tại.

***