Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Chánh Pháp Hoa

PHẬT THUYẾT

KINH CHÁNH PHÁP HOA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẨM MƯỜI NĂM

NHƯ LAI HIỆN THỌ
 

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn cất lời bảo khắp đại chúng Bồ Tát ba lần: Các thiện nam! Tất cả hãy tin lời dạy bảo chắc thật của Như Lai, chớ có do dự.

Khi ấy Đại Sĩ Di Lặc và các vị khác trong hội chúng đều chắp tay bạch với Thế Tôn: Cúi xin Đại Thánh phân biệt giảng giải, chúng con đều tin tưởng lời Như Lai dạy.

Chư Bồ Tát cũng thưa với Thế Tôn ba lần như vậy.

Khi ấy, Thế Tôn thấy các Bồ Tát nói lên ba lần để khuyến trợ, muốn Phật tuyên thuyết như vậy.

Phật bảo các Bồ Tát: Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe và suy nghĩ cho kỹ!

Tất cả cũng đáp: Xin vâng!

Phật bảo: Thiện Nam! Như Lai kiến lập cảnh giới năng lực vô biên như thế.

Các Trời, Rồng, Thần, A Tu Luân, người thế gian đều tự biết và suy nghĩ: Thế Tôn Năng Nhân sinh vào dòng họ Thích, từ bỏ ngôi vua, đi đến bên dòng sông, ngồi dưới cây nơi Đạo Tràng, chứng đạt đạo vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Nhưng từ lâu xa, trăm ngàn ức triệu vô số kiếp đến nay, ta đã đạt quả vị Chí Chân Đẳng Chánh Giác rồi.

Ví như có năm trăm ngàn ức Cõi Phật, có số vi trần đầy trong các cõi ấy, nếu có người lấy số bụi đó qua trăm ngàn ức triệu các Cõi Phật không thể tính đếm ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt.

Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua lại bỏ một hạt như thế và cứ như thế lấy tất cả số vi trần trong năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy rải hết các cõi Phật, cho đến hết số bụi đó.

Này các thiện nam! Các ông nghĩ sao?

Có ai có khả năng tính đếm số lượng các cõi Phật này hay tư duy, trù tính mà có thể biết được chăng?

Đại Sĩ Di Lặc và các chúng Bồ Tát trong Pháp Hội đều bạch Phật: Bạch Đấng Thiên Trung Thiên! Không ai có thể tính đếm được.

Vì sao?

Vì Thế Giới Chư Phật nhiều vô lượng, không thể nghĩ bàn, chẳng phải là điều mà tâm biết được. Giả sử tất cả Thanh Văn, Duyên Giác có trí tuệ Hiền Thánh cũng không thể tư duy biết được số ấy.

Chỉ có trí tuệ của Đại Thánh Thế Tôn mới có thể biết được mà thôi, ngoài ra không ai có thể biết được.

Chính chúng con là các Bồ Tát ở địa vị không thoái chuyển còn không thể biết. Thế Giới của Chư Phật ở đây không suy lường, không có giới hạn.

Khi ấy Thế Tôn bảo với đại chúng: Các thiện nam! Nay ta sẽ nói. Như người kia lấy số vi trần trong năm trăm ngàn ức triệu không thể tính đếm các cõi Phật ở phương Đông, mỗi nơi đều bỏ một hạt. Cứ lần lượt mỗi cõi đi qua đều bỏ một hạt như thế.

Và cứ như thế?

Lấy tất cả số vi trần trong các cõi của năm trăm ngàn ức vô số cõi Phật ấy, rải hết các cõi Phật, cho đến hết số vi trần ấy.

Ta đã đạt đạo vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác đến nay trải qua số kiếp hơn hẳn số kiếp như số vi trần ấy.

Các thiện nam! Các ông thấy ta giảng pháp ở Thế Giới Kham nhẫn này, lại thị hiện tại trăm ngàn ức triệu các cõi Phật phương khác, tất cả đều gọi ta là Như Lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác.

Đức Định Quang Như Lai vì biết bao bạn bè mà thị hiện diệt độ.

Các thiện nam! Ta dùng phương tiện quyền biến khéo léo diễn nói Kinh Điển, hiện vô số điềm tốt đẹp.

Như Lai lại biết nguồn gốc qua lại, đi ở của tất cả chúng sinh, quán hết tâm chúng mà tùy duyên thị hiện, tất cả đều là danh xưng, không diệt độ mà nói là Nê Hoàn, tùy thuận tập tánh thiện ác của chúng sinh mà vì họ diễn giải biết bao nhiêu phương pháp.

Chư thiện nam! Ta quán thấy vô số loại tâm tánh khác nhau, việc làm bất đồng, cội đức cạn mỏng của chúng sinh phần nhiều bị phá hoại, không chịu tin nghe nên vì họ giảng nói.

Này các Tỳ Kheo! Nếu suy lường sau trước thì ta mới xuất gia, thành Đấng Bình Đẳng Giác đến nay chưa lâu, vừa mới đạt được đạo vô thượng chánh chân, thành Bậc Tối Chánh Giác. Nhưng Như Lai đã thành Phật đến nay rất lâu mà phương tiện nói là thành Phật chưa lâu.

Vì sao?

Vì muốn hóa độ chúng sinh vậy. Đối với chúng sinh có thể thuyết Kinh, đều đã độ thoát, nơi chốn có thể giảng nói thì tự hiện thân vì tất cả mà mở đường chỉ lối và cũng vì hàng trời, người ưa tạo tội phước.

Vì vậy cho nên những điều Như Lai diễn giảng đều chắc thật, chí thành, chẳng phải hư dối. Như Lai thấy hết tất cả ba cõi, tùy duyên hóa hiện, không sở hành, không xuất sinh, không xoay vần, không diệt độ, không thật có, không hiện hữu, cũng không có bản vô, không biết, không như thế, không thật hư, cũng không có ba cõi.

Sở hành của Như Lai là không thấy có ba cõi. Như Lai quán khắp tất cả các pháp, tại bất cứ chỗ nào cũng không bỏ mất các pháp.

Tất cả điều giảng dạy chí thành bất hư.

Chúng sinh khổ não không thể kể xiết, tạo nên bao nhiêu chủng tánh sai khác, tư duy niệm tưởng khác nhau, ta muốn khiến cho chúng sinh gieo trồng cội phước đức cho nên nói phân biệt biết bao nhiêu pháp.

Lại nữa, những điều Như Lai phải làm đều đã làm xong. Quả Phật hiện tại và sự đắc thành quả Đẳng Giác đến nay đã quá lâu xa, thọ mạng vô cùng, thường trụ bất diệt.

Như Lai không cần phải nói những điều đã nói lúc ban đầu về thời quá khứ trước đây khi hành pháp Bồ Tát để được thành tựu hạn lượng của thọ mạng.

Lại nữa, Như Lai đắc quả Phật đến nay thời gian lại nhiều gấp bội số trăm ngàn ức triệu như thí dụ trước. Rồi sau đó mới nhập Nê Hoàn.

Vì sao?

Vì giáo hóa chúng sinh mà thị hiện tu hành đến nay đã lâu xa, vì loài vô đức xa lìa phước đức, vì hạng bần cùng đắm trước ái dục, bị ràng buộc vào lưới kiến chấp mà tự che lấp mình, rong ruổi bất định.

Như Lai vì họ mà thị hiện, làm phát khởi tư tưởng mong chóng thành đạt, không sinh lười biếng, lo âu khó đắc.

Như Lai khéo léo phương tiện bảo các Tỳ Kheo: Cần khổ tu hành mới đắc Phật Quả, chân thật chẳng hư. Vì các chúng sinh trải vô số trăm ngàn ức triệu kiếp mới thấy Như Lai, vì việc làm của họ vội vàng không đúng, luôn luôn sợ hãi không chịu chấm dứt, cho nên nói Phật pháp khó được nghe, Như Lai khó được gặp.

Sự nghe thấy quá khó như vậy nên phát khởi tư tường khó gặp, buồn vui lẫn lộn, biết Phật là hy hữu, phát tâm dũng mãnh, ưa chỗ vắng lặng, tu hành tinh tấn. Do không thấy Phật nên sinh lòng khát ngưỡng, thấy Như Lai rồi, hoan hỷ kính lễ, tạo các công đức, ai không diệt độ thì giáo hóa khiến diệt độ, khai hóa mọi người.

Do vậy, Như Lai xuất hiện thuyết Kinh, nói ra lời chắc thật không hư.

Ví như có vị thầy thuốc thông minh trí tuệ, tài giỏi khó sánh, rành chế phương dược, biết bệnh nặng nhẹ, trị liệu đúng thuốc.

Ông có nhiều con, hoặc mười đứa cho đến trăm đứa.

Ông ta đi xa, các con ở nhà không hiểu y lý, không rành phương dược, không biết thuốc độc, bị bệnh rất nặng, uống nhằm độc dược.

Độc dược phát tác, choáng váng lăn lộn. Cha từ xa về, con ở trong thành đầu óc rối loạn. Thấy các con bị bệnh, người cha xót thương.

Con thấy cha về vui mừng tự nói: Cha đã về, thật là tốt lành, an ổn. Chúng con vì nhầm tin lời người mà uống phải độc dược. Cúi xin cha cứu mạng chúng con.

Khi ấy, người cha thấy các con gặp tai nạn khổ não, lăn lộn dưới đất, liền bảo người mang thuốc đến, màu thuốc rất đẹp, mùi vị thơm ngon.

Người cha pha chế các thuốc, đưa cho các con và dặn: Hãy mau uống thứ thuốc thượng hạng, mùi vị thơm ngon này. Nếu các con uống thuốc này vào thì độc kia tiêu diệt, bệnh được khỏi ngay, thân thể an ổn, khí lực khang kiện.

Các người con không bị sự điên đảo làm rối loạn đầu óc thì thấy thuốc thơm, nếm biết mùi vị, liền uống vào, lập tức lành bệnh, độc dược tiêu trừ. Những người con tâm tánh bị bấn loạn thì chẳng chịu uống thuốc.

Những người con uống thuốc lành bệnh đều nói là do cha cho thuốc nên chúng ta được lành bệnh và được an ổn. Còn những người con bị tà tưởng, không chịu uống vì khi thấy màu thuốc không ưa hương vị.

Người cha nghĩ: Nay những người con của ta ngu si không biết tâm tánh điên đảo, không chịu uống thuốc, bệnh không thuyên giảm, e rằng sẽ chết.

Nay ta nên dùng quyền biến để các con uống thuốc.

Nghĩ rồi, bèn bày phương tiện, muốn khiến con mau uống thuốc, liền bảo các con: Ta nay tuổi già sức yếu sẽ chết nay mai, các con hãy gắng dậy. Nếu ta chết đi thì nên dùng thuốc này chữa lành nhiều bệnh. Các con nên ghi nhớ, uống thuốc đúng liều lượng. Giả sử chán bệnh, muốn được an ổn thì nên uống thuốc này.

Dặn dò các con xong, người cha bỏ đi đến nước khác, giả báo là chết.

Các con nghe cha chết rồi, buồn đau khóc lóc, lo sầu không thể kể xiết: Cha chúng ta trí tuệ thông minh, nhưng xem thường không uống thuốc nên nay đã chết, để anh em cô độc. Họ nhớ nghĩ, âu lo, tự trách mình không làm theo lời cha dạy.

Rồi họ bèn làm theo những việc cha dặn lại, xem kỹ màu sắc, hương vị của thuốc, tự mình trị liệu không dám khinh suất, liền uống thuốc vào để tiêu diệt mầm bệnh, bệnh liền thuyên giảm.

Khi ấy, người cha thấy con uống thuốc, bệnh lành, liền trở về nhà.

Phật dạy: Này các thiện nam! Như vị thầy thuốc ấy khéo quyền phương tiện khiến các con hết bệnh thì có nên chê trách việc làm của vị ấy là không chính đáng chăng?

Các vị Bồ Tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn, không! Bạch Bậc An Trú, không!

Phật dạy: Ta từ vô số trăm ngàn ức kiếp không thể tính đếm, phát tâm cầu đạo vô thượng chánh chân, cần khổ vô cùng, luôn luôn hành phương tiện, thị hiện giáo hóa khai ngộ quần sinh.

Người cha thầy thuốc ấy chính là Như Lai vậy, còn các người con ấy chính là chúng sinh sinh tử trong năm đường.

Người cha đi nơi khác không có mặt dụ cho Như Lai chưa xuất hiện ở đời. Các con vào thành uống độc dược lăn lóc dụ cho chúng sinh bị ba độc buộc ràng, trôi lăn trong ba cõi, năm đường không thể tự cứu.

Người cha trở về dụ cho Như Lai hành hạnh đại từ bi, thấy chúng sinh trong ba cõi lưu chuyển trong năm đường không thể tự ra khỏi, cho nên xuất hiện ở đời rộng nói Kinh Pháp, khai hóa chúng sinh.

Uống thuốc lành bệnh dụ cho phát tâm cầu đạo vô thượng chánh chân, trụ quả bất thoái, vô sinh, hoặc đắc Thanh Văn, Duyên Giác không đạt cứu cánh. Xem màu sắc, hương vị của thuốc mà không uống dụ cho sáu mươi hai quan điểm rơi vào tà kiến.

Người cha già để thuốc lại, dặn con rồi bỏ đi dụ cho Phật thấy chúng sinh nghi Đạo Giáo nên thị hiện diệt độ, lưu lại Kinh Pháp để giáo hóa đời sau.

Bốn chúng đệ tử phúng tụng học hỏi, nghĩ công đức của Phật, phát tâm cầu đại đạo, hoặc đắc La Hán, hoặc đắc Duyên Giác.

Phật thấy như vậy lại xuất hiện ở thế gian. Tất cả thế gian đều là con của ta.

Các thiện nam! Như Lai hành quyền phương tiện chẳng phải là dối trá.

Khi ấy Đức Thế Tôn muốn giảng lại nghĩa trên liền nói bài tụng:

Trăm ngàn ức kiếp

Không thể nghĩ bàn

Muốn biết số lượng

Cũng không biết được

Chí tôn Đại Thánh

Đắc đạo đến nay

Thường giảng thuyết Kinh

Chưa từng dừng nghỉ

Khuyến khích giúp đỡ

Vô số Bồ Tát

Đều được an trú

Đạo tuệ của Phật

Vô số ức kiếp

Khai đạo chúng sinh

Trải ngàn ức kiếp

Không thể nghĩ bàn

Vì họ thị hiện

Có cảnh diệt độ

Để giáo hóa họ

Chỉ đường lợi ích

Dùng quyền phương tiện

Thị hiện diệt độ

Nên vì chúng sinh

Diễn nói Kinh này

Ta đã an lập

Tất cả chúng sinh

Phân biệt cho họ

Rõ biết nghĩa ấy

Tâm họ điên đảo

Nên không hiểu biết

Muốn an lập họ

Phật bèn tuyên thuyết

Nếu gặp được Phật

Sau Ngài diệt độ

Dùng biết bao vật

Mà để cúng dường

Thấy ta diệt độ

Âu sầu lo lắng

Nếu thấy lại Phật

Mừng vui phấn chấn

Giả sử thẳng thắn

Nói lời chí thành

Này các chúng sinh

Tạm bỏ thân này

Rồi sau Như Lai

Luôn tự thị hiện

Dùng mọi âm thanh

Diễn bày Phật Đạo

Người ở đời sau

Phân biệt lời này

Ta còn trong ấy

Chẳng phải diệt độ

Tỳ Kheo nên biết

Phật quyền phương tiện

Luôn luôn kham nhẫn

Hiện ra trên đời

Cùng với đồ chúng

Quyến thuộc vây quanh

Nhân đó tuyên dương

Phật đạo tôn quý

Chư hiền được nghe

Phật hiện ở đời

Làm Bậc Đạo Sư

Vào cõi tịch diệt

Quán thấy chúng sinh

Sầu lo áo não

Hoảng hốt không thấy

Tướng hảo của Ngài

Khát khao trông ngóng

Muốn được thấy Phật

Và sau đó thì

Phân biệt Kinh Điển

Không thể nghĩ bàn

Trăm ngàn ức kiếp

Ta thường kiến lập

Phương thức như vậy.

Phật thường đi đến

Ở núi Linh Thứu

Sàng tòa tự nhiên

Số nhiều vô lượng

Giả sử chúng sinh

Thấy Thế Giới ấy

Có nạn nước lửa

Thiêu hủy đất trời

Thì ngay khi ấy

Cõi Phật của ta

Đủ thứ vi diệu

Êm ả an lành

Ca múa vui chơi

Vô cùng an ổn

Giảng Đường Tinh Xá

Phòng ốc gác lầu

Đẹp đẽ trang nghiêm

Đều bằng bảy báu

Dược thảo cây cối

Hoa quả tốt tươi

Mưa hoa tự nhiên

Hoa ấy nhiều màu

Dùng rải cúng Phật

Và chúng đệ tử

Mọi người ở nhà

Đều thấy chấn động

Có kẻ ưa thích

Phát khởi đạo tâm

Cõi nước của ta

Kiến lập thường nhiên

Người khác có thấy

Tai kiếp thiêu rụi

Thì cõi nước ấy

Lửa rất lạ thường

Do quyền phương tiện

Thị hiện như thế

Như Lai khen ngợi

Tôn pháp của Phật

Vô lượng vô biên

Hiện bày như thế

Các loài chúng sinh

Không chịu lắng nghe

Chỉ thích tạo nên

Tội khổ tai ương

Giả sử nhân dân

Nhu hòa trung thực

Khi ấy Đức Phật

Xuất hiện thế gian

Gặp được Thế Tôn

Giảng dạy Kinh Pháp

Mới được sáng tỏ

Nghĩa lý thanh tịnh

Phật đến vì người

Phân biệt răn dạy

Nói những sự việc

Tạo trong luân hồi

Giả sử Như Lai

Lâu mới xuất hiện

Sau đó mới vì

Thuyết giảng Kinh này

Trí lực của ta

Quang minh tối thượng

Tri kiến như thế

Đâu phải mỏng bạc

Việc làm đời trước

Số kiếp vô lượng

Là do lòng từ

Bình thản vô cầu

Người có trí tuệ

Không được hồ nghi

Vứt bỏ do dự

Chớ ôm nội kết

Những điều sẽ nêu

Chưa từng công bố

Nay Phật bảo khắp

Không nghĩa nào khác

Như vị thầy thuốc

Dùng phương tiện khéo

Mở bày phân biệt

Cho con phương thuốc

Hiện suy già chết

Nhưng thân thường tại

Dùng tiếng vi diệu

Vô thủy vô chung

Dung nạp bạn hữu

Tùy nghi sử dụng

Ở đời thuyết pháp

Trị bệnh chúng sinh

Khai dẫn kẻ ngu

Khiến lìa tăm tối

Thị hiện Niết Bàn

Thật không diệt độ

Cớ gì ân cần

Muốn được hiện rõ

Người thường mờ tối

Khiến tâm tin ưa

Do vì phóng dật

Dọa lạc ba đường

Tâm họ náo nức

Muốn được hiểu rõ

Lời của Như Lai

Thường thường biết thời

Vì các chúng sinh

Thực hành trí tuệ

Dùng phương tiện gì

Mà nói đạo pháp

Do đâu mà được

Kinh giáo của Phật.

Khi Đức Thế Tôn nói về thọ lượng ấy của Như Lai, vô số chúng sinh không thể nghĩ bàn đều đạt được ý nghĩa lợi ích của đạo giải thoát.

***