Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Chúng Hứa Ma đế

PHẬT THUYẾT

KINH CHÚNG HỨA MA ĐẾ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Pháp Hiền, Đời Tống
 

PHẦN TÁM
 

Sau khi chuyển pháp luân lần đầu tiên độ năm vị Tỳ Kheo xong, Đức Phật cùng các vị ấy du hành và dừng lại nghỉ bên bờ sông Phược La Ca.

Bấy giờ tại thành Ba La Nại, có người con của ông trưởng giả Câu Lê Ca tên là Da Xá, nhà rất giàu, có nhiều của báu. Gia đình bên mẹ thuộc một dòng họ hào phú trong nước, có nhiều nô tỳ.

Các nô tỳ đều trẻ tuổi, thông minh, nhiều tài nghệ, giỏi ca nhạc thường hầu hạ bên chủ. Ngày kia, Da Xá bỗng nhiên lệnh cho các kỹ nữ trang điểm dung nhan, mặc y phục đẹp đẽ, gióng trông nổi nhạc rồi cùng quyến thuộc vui chơi suốt ngày, đến tận nửa đêm mới dừng nghỉ.

Do mỏi mệt các kỹ nữ ngủ say, cửa phòng không cài. Nửa đêm Da Xá thức giấc đi rảo quanh kiểm tra nhà kho và các phòng ốc.

Đi ngang qua phòng của các kỹ nữ, Da Xá thấy các cô gái thân thể, tóc tai, quần áo xốc xếch, nằm la liệt như những xác chết.

Nhìn thấy cảnh ấy do nhân duyên xuất gia đã đến, lòng Da Xá bỗng sinh ra chán ngán, rồi như kẻ phát cuồng, đang đêm anh ta mang đôi giày quý đến cung Vua kêu lớn gọi người giữ cửa: Ta khổ lắm, ta khổ lắm! Hãy báo với Vua. Người giữ cửa không chịu nghe lời.

Da Xá lại đến cửa sau gọi người giữ cửa và cũng gào lớn: Ta khổ lắm, ta khổ lắm! Hãy báo với Vua. Người giữ cửa ấy cũng không nghe.

Thế là trong đêm ấy, Da Xá ra khỏi thành đi về hướng Đông đến thẳng bờ sông Phược La Ca, vừa đi vừa gào: Ta khổ lắm, ta khổ lắm. Lúc ấy Đức Thế Tôn vào canh ba đang đi kinh hành ở bờ sông bên kia gần đó.

Da Xá từ xa nhìn thấy Đức Thế Tôn oai đức trang nghiêm không ai sánh được, đúng là bậc Phi Phàm, nên liền gọi lớn: Thưa Thánh Giả, con khổ quá.

Đức Thế Tôn dùng lời êm diệu khuyên bảo: Này thiện nam tử, ông hãy đến đây với ta, ở chỗ ta sẽ được an lạc. Da Xá nghe thế lập tức cởi bỏ đôi giày quý trên bờ, lội qua sông, đến cúi đầu lễ Phật rồi đứng sang một bên. Đức Phật cùng Da Xá đi trở về chỗ Ngài.

Sau khi dọn bày chỗ ngồi xong, Phật nói với Da Xá: Bố thí và giữ giới là nguyên nhân để sinh lên Cõi Trời, ở cõi ấy tuy tự do vui sướng trong năm dục nhưng chưa dứt được luân hồi, ông chớ lấy phước đức sinh lên Cõi Trời mà vui mừng.

Nay nếu ông muốn tìm nẻo nhằm cắt đứt phiền não, trừ hết chướng ngại để được giải thoát thì phải nỗ lực tu tập theo chánh đạo, có thể ngộ chân lý, chứng Niết Bàn.

Này Da Xá, sắc là thường hay vô thường?

Là khổ hay không khổ?

Là không hay phi không?

Là hữu ngã hay vô ngã?

Các uẩn khác là thọ, tưởng, hành, thức có như thế không?

Da Xá nghe Đức Phật nói thế, tâm chàng lúc ấy giống như một chiếc áo trắng dễ nhuộm màu, liền lìa mọi trần cấu, chứng được pháp nhãn thanh tịnh.

Đức Thế Tôn lại giảng rộng về pháp tứ Thánh đế: Khổ, tập, diệt, đạo.

Da Xá ngay tại chỗ ngồi tâm liền dứt sạch các lậu, chứng quả La Hán, bèn đáp lời Thế Tôn: Theo như lời Phật dạy thì các uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường, khổ, không, vô ngã.

Đức Thế Tôn biết tâm Da Xá đã thật sự đạt được vô lậu, chứng giải thoát, trong khi còn mặc chiếc áo đẹp của người tại gia, nên vì Da Xá mà nói kệ:

Nếu đạt chánh đạo

Còn tiếc trang phục

Tuy tu phạm hạnh

Lòng trần chưa dứt.

Nếu điều phục được

Cầm trượng mà đi

Tuy Bà La Môn

Thật là Sa Môn.

Da Xá vốn là người có trí tuệ, nay lại vừa chứng quả vô học nên vừa nghe lời kệ của Đức Phật xong liền suy nghĩ: Đức Thế Tôn nói như thế là vì ta còn mặc y phục tại gia.

Da Xá liền bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con nay muốn làm Sa Môn trong Phật Pháp, xin Đức Thế Tôn thương mà chấp nhận cho.

Đức Phật nói: Lành thay! Tỳ Kheo! Da Xá bèn tự cạo râu tóc, mặc áo Ca Sa thành vị Sa Môn có đầy đủ oai nghi. Hôm ấy, vào lúc trời sáng, trưởng giả Câu Lê Ca được người hầu hối hoảng đến báo tin Da Xá giữa đêm đã bỏ ra ngoài thành, đến giờ vẫn chưa về, không biết là đi đâu.

Được tin, trưởng giả vô cùng kinh ngạc, tự nghĩ: Con ta đang đêm bỏ nhà ra đi chắc là làm điều bất chánh, liền hỏi người nhà: Con ta ra đi đã mặc quần áo, mang giầy như thế nào?

Người nhà thưa: Những áo quần tốt, giầy quý không còn thấy ở chỗ thường ngày, chắc là công tử đã mặc rồi.

Trưởng giả suy nghĩ: Con ta ra đi mặc quần áo tốt, mang giầy quý chắc không phải làm chuyện xấu. Vậy ta phải mau đến các nơi tìm kiếm. Nghĩ thế rồi, ông cho người nhà chia nhau đi tìm, còn tự thân mình cũng ra khỏi thành, đến bờ sông Phược La Ca để tìm kiếm đứa con.

Trưởng giả bỗng nhìn thấy đôi giày quý của con mình thường mang để nơi bờ sông, lại nghe mọi người nói có Đức Phật cùng các đệ tử đang ở bên kia sông, liền nghĩ: Chắc con ta đang ở nơi đó. trưởng giả bèn cởi giày lội qua sông, đến chỗ Đức Phật. 

Từ xa, Đức Phật thấy ông ta, biết đang đi tìm con. Khi trưởng giả đến trước Đức Phật, thấy Ngài sáng rỡ với những tướng lạ, ông chưa kịp hỏi về con của mình đã sinh tâm ngạc nhiên, thán phục.

Đức Thế Tôn dùng phương tiện theo tâm niệm vừa khởi lên của trưởng giả, lên tiếng bảo: Lành thay!

Trưởng giả! Chắc là mỏi mệt lắm! Ông hãy ngồi, ta sẽ nói với ông điều này. Trưởng giả Câu Lê Ca vừa nhìn Đức Thế Tôn với các tướng tốt và dáng vẻ uy nghiêm, lại được nghe những lời êm dịu hiền từ, nên càng chú ý chiêm ngưỡng quên cả việc tìm con.

Thế Tôn hỏi trưởng giả: Ta có pháp vi diệu, ông thích nghe chăng?

Trưởng giả thưa: Xin Đức Phạt thương xót mà giảng thuyết cho con.

Đức Phật nói: Bố thí, trì giới là nguyên nhân để được sinh lên Cõi Trời, nhưng đó không phải là quả báo rốt ráo, nếu dứt trừ hết phiền não thì mới có thể đạt được Thánh Đạo.

Này trưởng giá Câu Lê Ca, nay ta hỏi ông, sắc là thường còn hay không thường còn?

Là khổ hay không khổ?

Là không hay phi không?

Là hữu ngã hay vô ngã?

Các uẩn kia: Thọ, tưởng, hành, thức đều có như thế không?

Lúc ấy Đức Thế Tôn vì muốn cho trưởng giả được giải thoát, nên bảo ông: Ông hãy quán sát kỹ và nói cho ta biết.

Trưởng giả Câu Lê Ca thưa: Nay con mới thật biết năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường, khổ, không, vô ngã. Đức Thế Tôn lại giáng rõ về pháp Tứ Đế, do đó trưởng giả Câu Lê Ca đã trừ bỏ được mọi trần cấu, đạt pháp nhãn tịnh, thân tâm vui sướng, vui vẻ vô hạn.

Bấy giờ Thế Tôn biết trưởng giả tâm ý đã khai mở, lòng yêu thương của kẻ phàm tục không còn mạnh mẽ trong tâm nữa, nếu thấy con mình trở thành vị Sa Môn thì chắc không còn sầu khổ, nên hỏi trưởng giả: Này Câu Lê Ca, do nguyên nhân nào ông đến đây?

Trưởng giả thuật lại việc đi tìm con cho Đức Thế Tôn nghe.

Đức Phật liền gọi: Tỳ Kheo Da Xá, hãy đến đây!

Trưởng giả thấy con mình đã xuất gia mang hình tướng một Sa Môn, lại biết con mình đã đạt vô lậu, chứng quả La Hán, liền lên tiếng: Thật sung sướng! Này con, con trước có thể tự lợi, lại có thể làm lợi ích cho người khác. Con đã khiến ta được nghe pháp tối diệu, được xa rời trần cấu, chứng pháp nhãn thanh tịnh, đều nhờ con mà ta được như thế.

Trưởng giả lại bạch Phật: Con nay nguyện tu tại gia, xin Đức Phật truyền giới cho con.

Đức Phật khen: Lành thay! Ta nay sẽ truyền Tam Quy cho ông. Ông hãy lắng nghe cho kỹ, trọn đời giữ gìn, chớ có sai phạm.

Câu Lê Ca thưa: Con nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng Già.

Đức Phật dạy: Nay ông đã thọ Tam Quy rồi, từ hay ông là cận sự nam đầu tiên tại thế gian.

Câu Lê Ca được nghe Đức Phật thuyết pháp mà xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh, lại được thọ Tam Quy, khiến tâm hồn thư thái, vô cùng vui vẻ, liền bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, ngày mai con sẽ chuẩn bị bữa trai thực tại nhà để thỉnh Đức Phật cùng các Thánh Chúng đến cúng dường.

Cúi mong Đức Phật từ bi hứa nhận cho. Đức Phật lặng yên chấp nhận. trưởng giả biết Đức Phật đã nhận lời nên trong lòng mừng vui vô hạn, liền nhiễu quanh Phật ba vòng, lễ Phật rồi lui ra.

Trưởng giả Câu Lê Ca Sau khi đã thỉnh Phật được rồi, vội về nhà bảo với vợ con và quyến thuộc: Da Xá đêm ấy ra đi đến sông Phược La Ca xuất gia theo Phật làm vị Sa Môn và tu chứng được quả vị La Hán. Ta tìm Da Xá nên đã đến đó và được nghe Đức Phật thuyết pháp, nhờ đấy mà lìa trần cấu, có được pháp nhãn tịnh.

Đức Phật truyền lại Pháp Tam Quy cho ta, ta đã thỉnh Ngài ngày mai đến để cúng dường. Đức Phật và Thánh Chúng sẽ tới đây thọ trai, vậy các người hãy vì ta mà dọn dẹp, rưới nước quét dọn sạch sẽ nhà cửa, chuẩn bị các thứ ăn uống cùng với hương hoa để cúng dường Phật.

Các người nên gắng sức sẽ được lợi ích lớn. Hôm sau, khi bình minh vừa lên thì mọi việc đã chuẩn bị xong.

Trưởng giả Câu Lê Ca từ nơi sân nhà đốt hương hướng vọng về chỗ Đức Phật bạch: Bửa ăn đã chuẩn bị xong, thỉnh Đức Phật đến với chúng con.

Lúc ấy Đức Phật bảo Câu Lê Ca: Này các vị La Hán, hãy cùng đến nhà Câu Lê Ca theo như lời thỉnh cầu của gia chủ.

Đức Phật lại bảo Da Xá: Ông trở về nhà ăn mặc khác xưa, mẹ và thân thuộc chắc là buồn khổ. Nay ông đã xuất gia và chứng quả La Hán, vậy ông nên dùng phương tiện để khiến ai nhìn thấy mình cũng sinh tâm cung kính, vui mừng.

Đức Phật dạy xong liền cùng Thánh Chúng đến nhà trưởng giả thọ thực. Lúc đó Câu Lê Ca đứng ở cửa nhà dốc tâm mong chờ Phật đến.

Đức Phật tới nơi, trưởng giả cung kính lễ xuống chân Phật, rồi đốt hương rước mời vào cửa trong. Thân Mẫu, nhũ Mẫu của Da Xá cùng các quyến thuộc đồng ra nghinh tiếp.

Lần đầu tiên thấy tướng tốt đoan nghiêm, uy quang khác thường của Đức Phật, lại thấy Da Xá vá các vị La Hán với y phục nghiêm trang, hình dáng uy nghi, cử chỉ đi đứng đều rất khác thường, nên vây quanh chiêm ngưỡng và vui mừng khôn xiết. Trưởng giả Câu Lê Ca thỉnh Đức Phật ngồi lên trên, các vị La Hán cũng đều an tọa.

Lúc ấy trưởng giả và mọi người ở trong nhà lần lượt lễ xuống chân Đức Phật và Thánh Chúng rồi đứng sang một bên. 

Bấy giờ Đức Phật vì muốn cho Thân Mẫu Da Xá cùng tất cả bà con thân thuộc trong nhà của trưởng giả được vui mừng mà phát tâm Bồ Đề, nên bảo: Bố thí, giữ giới sẽ được sinh lên Cõi Trời, tuy có vui sướng nhưng chưa dứt được luân hồi. Muốn dứt luân hồi thì phải dứt trừ phiền não, trong pháp sinh diệt cần phải hiểu rõ. Vậy các vị nên lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ, ta sẽ vì các vị mà giảng rõ.

Đức Phật giảng: Này các vị, sắc là pháp vô thường, khổ, không, vô ngã. Bốn uẩn kia là thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.

Các vị có biết không?

Rồi Thế Tôn Giảng rộng phân biệt. Thân Mẫu, nhũ mẫu của Da Xá vốn đã có căn lành nên khi được nghe Phật giảng giải rõ ràng về các pháp mầu nhiệm ấy đã dễ dàng thấu hiểu, khác nào những tấm vải trắng nên dễ nhuộm các sắc màu.

Đức Phật lại giảng giải rộng về bốn chân lý là khổ, nguyên nhân gây ra khổ, Niết Bàn và con đường tu tập đạt đến Niết Bàn. Tứ đế khổ, tập, diệt, đạo.

Thân Mẫu của Da Xá và những người thân nghe Đức Phật giảng thuyết tâm dứt trừ tham ái, lìa nghi hoặc thâu hiểu các pháp không còn chướng ngại, ngay khi chưa rời khỏi chỗ ngồi đã chứng được pháp nhãn thanh tịnh, liền đứng dậy đến trước Đức Phật thưa: Bạch Đức Thế Tôn, chúng con đã thật sự hiểu rõ năm uẩn, ba độc đều là pháp khổ, không, vô ngã, vô thường. Khi ấy Thân Mẫu và quyến thuộc của Da Xá.

Được Đức Phật truyền pháp Tam Quy, bà và những người được truyền vô cùng vui mừng, liền đảnh lễ tạ ân Phật, rồi thưa với Phật: Bạch Thế Tôn, đã đến giờ thọ trai. Đức Phật yên lặng.

Vợ chồng trưởng giả tự tay bưng những thức ăn thơm ngon, tinh khiết nhất dâng lên Đức Phật và Thánh Chúng. Sau khi Đức Phật và Thánh Chúng thọ trai và rửa tay xong, vợ chồng vị trưởng giả liền đến ngồi vào chỗ thấp nhất trước Phật, cầu xin Phật nói pháp.

Đức Phật vì muốn giáo hóa đem lại lợi ích khiến cho tâm họ được vui vẻ, nên hứa khả chấp nhận.

Vợ chồng vị trưởng giả liền thưa hỏi Phật: Bạch Thế Tôn, chúng con có chỗ chưa hiểu rõ muôn thưa hỏi, cúi mong Thế Tôn Giảng cho chúng con được rõ. 

Con của chúng con là Da Xá do nhân duyên gì mà đang ở nhà bỗng ra đi rồi gặp Phật, được nghe pháp rồi trở thành Sa Môn, vận pháp phục trang nghiêm, trừ hết lậu hoặc, chứng quả La Hán?

Đức Thế Tôn bèn nói với gia đình vị trưởng giả: Trong thời quá khứ, ở cách nước Ba La Nại không xa có một Tiên Nhân có lòng từ bi, luôn làm lợi ích cho chúng sinh, thường ôm bát vào thành khất thực. Một hôm, đi đến ngã tư đường Tiên Nhân bỗng thây một xác chết, thân thể rữa nát, bay mùi hôi thối, người qua đường không ai dám lại gần.

Tiên Nhân chợt nghĩ đến thân mình khi chết chắc cũng giống như thế, do đó rất chán sợ muốn rời xa sự luân hồi. Lúc ấy có một thiếu niên cũng thấy xác vật chết mà sinh chán ghét nỗi khổ luân hồi như vị Tiên Nhân. Cả hai cùng chán nỗi khổ luân hồi, nên đều siêng năng tu tập theo con đường giải thoát của chánh đạo.

Vị Tiên Nhân ấy chính là ta, còn Đồng Tử kia chính là Da Xá. Cho nên ngày nay, Da Xá gặp ta, được nghe diệu pháp mầu, liền chứng quả La Hán.

Trưởng giả Câu Lê Ca cùng tất cả quyến thuộc nghe Đức Phật nói xong, rất vui mừng, tin tưởng thọ trì, rồi lễ Phật lui ra. Đức Thế Tôn cùng Thánh Chúng cũng trở về vườn Lộc Dã.

Trưởng giả Câu Lê Ca khi đó còn có bốn người con là Bố La Nỗ, Vĩ Ma La, Nga Tông Bát Đế và Tô Ma Hộc, thấy Da Xá theo Phật xuất gia chứng quả La Hán nên đều suy nghĩ: Tại sao chúng ta còn quyến luyến với tham ái mà không tìm cầu nẻo giải thoát?

Lại nghĩ tiếp: Nếu nay trong đời không có bậc Vô Thượng Giác thì lấy ai mà nói pháp tối thượng. Thế thì chúng ta làm sao dứt được luân hồi. Nay đã gặp được Phật Pháp, có được chánh tín, chúng ta nên cùng nhau rời gia đình, theo Da Xá để tìm giải thoát.

Nghĩ xong bốn anh em Bố La Nỗ rời khỏi nhà đến nước Ba La Nại, nơi Phật đang ở, cung kính lễ Phật rồi đứng sang bên thưa: Chúng con là con của trưởng giả Câu Lê Ca và là em của Da Xá, nay đến để xin được làm Sa Môn, mong Đức Phật thương xót chấp nhận. Đức Thế Tôn sai các đệ tử cạo bỏ râu tóc cho họ, cho mặc Ca Sa làm Sa Môn và nói pháp cho họ nghe.

Đức Phật dạy: Này Bố La Nỗ, các ông làm Sa Môn phải sống khổ hạnh, thu nhiếp tâm ý, đừng cho loạn động để cầu pháp chân thật, làm cho tâm đạt vô ngã thì sẽ hiểu rõ chân tướng của các pháp, hết sinh tử, dứt luân hồi, đạt đến giải thoát.

Khi ấy bốn anh em Bố La Nỗ nghe Đức Phật dạy xong, khởi sinh chánh tín, dốc lòng siêng năng tu tập diệt trừ phiền não, đạt tâm giải thoát biết rõ: Việc làm đã xong, phạm hạnh đã lập, không còn tái sinh, vĩnh viễn dứt hẳn luân hồi, liền được chứng quả A La Hán. Lúc ấy chúng đệ tử của Đức Phật đã có đung mười vị đại A La Hán.

Bấy giờ trong nước Ba La Nại, có năm mươi chàng trai, con của các trưởng giả những tộc họ lớn, là bạn với các người con của trưởng giả Câu Lê Ca, bỗng nghe tin Da Xá cùng Bố La Nỗ… đã theo Phật xuất gia, chứng được đạo quả, liền nghĩ: Anh em Da Xá là con trưởng giả, thuộc dòng họ danh tiếng, giàu có không ai bằng, thông minh hơn người, dáng vẻ đoan nghiêm, ít kẻ sánh kịp, hưởng thụ sung sướng, không chút khổ não mà còn lìa bỏ gia đình để học đạo giải thoát, chúng ta lại còn luyến tiếc sao?

Suy nghĩ xong, các chàng trai con trưởng giả liền rời khỏi thành Ba La Nại, đến chỗ Đức Phật, thành tâm đảnh lễ dưới chân Phật, đứng qua một bên, thưa: Bạch Đức Thế Tôn, chúng con là năm mươi người con của các Trưởng giả, nay muốn xuất gia theo Phật để làm Sa Môn, xin Đức Phật từ bi thương mà chấp nhận.

Đức Phật nói: Lành thay! Những người con của các trưởng giả, nay đã đúng lúc các vị lìa bỏ gia đình để theo Đạo Pháp. Nói xong, Đức Phật bảo các đệ tử giúp họ cạo bỏ râu tóc, mặc áo Ca Sa rồi nhận họ vào hàng Sa Môn.

Đức Thế Tôn vì muốn họ chứng được đạo quả, nên dạy: Này những người con của các Trưởng giả, các vị từ bỏ gia đình làm Sa Môn thì phải hết lòng tu tập khổ hạnh, thu nhiếp tâm ý, đừng cho loạn động để cầu chân lý, tâm trừ chấp ngã nhất định sẽ được liễu ngộ, chấm dứt cội nguồn sinh tử, mãi mãi không còn luân hồi, chắc chắn sẽ được giải thoát.

Các vị trưởng giả tử sau khi nghe lời Phật dạy, lòng tin thêm chân chính vững chắc, siêng năng tu tập, diệt được phiền não, đạt tâm giải thoát, biết rõ: Việc làm đã xong, phạm hạnh đã thành, không còn tái sinh, đoạn trừ vĩnh viễn luân hồi. Tất cả đều chứng quả La Hán. Lúc ấy lần đầu tiên tại thế gian có được sáu mươi vị Đại La Hán.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nhìn các đệ tử rồi bảo: Ta từ vô lượng kiếp tới nay luôn siêng năng tinh tấn tu tập, đến nay được thành ngôi Chánh Giác, chính vì ta đã giải trừ những trói buộc cho tất cả chúng sinh. Các ông hôm nay được nghe ta giảng nói về chánh pháp, phiền não tiêu trừ, được giải thoát, có đầy đủ tam minh lục thông, thoát khỏi mọi ràng buộc ở Cõi Trời lẫn cõi người, có thể làm ruộng phước tốt nhất cho tất cả chúng sinh.

Vậy các ông nên ra đi vì lòng từ bi, tùy duyên làm lợi ích, an vui cho thế gian.

Đức Phật vừa nói xong, lúc ấy có một tội ma tên Ma Nã Phược Ca, từ xa biết được hôm nay Sa Môn Cồ Đàm đã nói với các đệ tử nơi vườn Lộc Dã: Các ông đã thoát khỏi mọi ràng buộc của Cõi Trời và cõi người. Mỗi người nên ra đi tùy duyên làm lợi ích, đem lại an vui cho chúng sinh.

Liền nghĩ: Nay nếu ta không làm mê hoặc, rối loạn họ thì chắc chắn họ sẽ giáo hóa hết chúng sinh ở thế gian theo Phật.

Tội ma liền biến thành thân người, trong chốc lát đã đến chỗ Phật, đứng trước Đức Phật nói kệ:

Giải thoát của Ngài không phải chân

Sa Môn không đạt giải thoát ấy

Tự thân Ngài còn bao trói buộc

Làm sao giải thoát được cho người.

Đức Thế Tôn biết tội ma đến muốn mê hoặc, làm rối loạn tâm ý, thầm nghĩ: Ngươi chỉ tự tạo nghiệp, làm sao có thể phá được ta, liền nói kệ:

Ta ở Cõi Trời cùng nhân gian

Đã giải thoát được các buộc ràng

Các La Hán cũng đều giải thoát

Tội ma các ngươi sao phá được.

Ma nã phược ca nghe những lời ấy, biết Đức Phật đã rõ âm mưu của mình, bèn nghĩ là không thể nào nhiễu loạn được, nên hết sức đau khổ rồi biến mất.

Bấy giờ Thế Tôn bảo các vị Tỳ Kheo: Ta đã nói rằng các ông thoát khỏi mọi trói buộc trong Cõi Trời, người, vậy hãy thương chúng sinh mà đi truyền bá chánh pháp.

Các ông nên mau lên đường! Các vị La Hán tuân lời Phật dạy cùng nhau đảnh lễ, từ biệt Thế Tôn rồi lên đường du hóa. Sau khi các vị La Hán đã rời khỏi Vườn Nai, Đức Phật một mình đi đến vùng Tây Nẵng Đã Nhĩ, bên bờ hồ Ô Lổ Vĩ Loa, nơi rừng Ca La Ba ta kinh hành rồi an tọa thiền định.

Lúc ấy có sáu mươi người hiền ở trong vùng thường cùng các kỹ nữ hằng ngày ca hát vui chơi. Một hôm, có một kỹ nữ đang trong cuộc vui bỗng sinh tâm chán nản, bỏ đi không biết về đâu. Sáu mươi người hiền vốn có căn lành, trong khi đi tìm cô gái ấy đã vào đến rừng Ca La Ba ta gặp Đức Thế Tôn đang ngồi tại một gốc cây.

Tất cả họ đều vô cùng kinh ngạc, nói với nhau: Vị Sa Môn này thân hình như núi vàng sáng chói, diện mạo đoan chính, đầy đủ các tướng tốt, tôn quý không ai sánh bằng.

Họ đều ca ngợi hết lời rồi đến trước Đức Phật lên tiếng hỏi: Thưa Sa Môn, Ngài có thấy một người con gái đi ngang qua đây không?

Đức Phật đáp: Này các hiền giả, nơi đây vắng vẻ, không phải là chốn cho các cô gái đến dạo chơi. Các ông đến đây để tìm một cô gái, sao bằng tự kiếm chính mình.

Những người hiền ấy nghe Đức Phật nói thế liền tỉnh ngộ, biết rõ các lỗi lầm trước đây nên thưa với Phật: Chúng con vừa rồi đi tìm cô gái thật là lầm lạc, nay muốn tự tìm mình, xin Đức Phật thương mà chỉ dạy.

Đức Phật nói: Này các hiền giả, nếu các vị đã biết được như thế thì hãy ngồi xuống, ta sẽ vì các vị mà nói pháp. Tất cả họ liền lễ Phật rồi lui ra, ngồi qua một bên.

Đức Phật dạy: Này các hiền giả, bố thí, trì giới là nguyên nhân được sinh lên Cõi Trời, tuy được hưởng vui sướng, nhưng không phải là hạnh phúc vĩnh viễn.

Nếu muốn giải thoát thì phải dứt trừ phiền não, nhận thấy rõ con đường sinh tử. Những người hiền vừa nghe xong những lời dạy ấy, lập tức các mê mờ, ngăn ngại đều được tiêu trừ, chú tâm tư duy và khởi lên niềm vui vô hạn.

Đức Phật biết tâm họ đã chuyển biến nên tiếp theo, Ngài giảng rộng pháp tứ Thánh đế: Khổ, tập, diệt, đạo. Tâm của các vị ấy như những chiếc áo trắng dễ nhuộm các màu, tùy theo căn cơ đều đạt được lợi ích. Ngay tại chỗ ngồi, họ đã chứng ngộ diệu lý của tứ Thánh đế, đạt được tri kiến chân chánh với các pháp, lòng tham dục tiêu trừ, không còn nghi hoặc, nhờ vậy nên đạt được tứ vô úy.

Họ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo áo bày vai bên phải, chắp tay hướng về Đức Phật thưa: Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Thế Tôn từ bi chứng nhận cho chúng con được quy y Phật, Pháp, Tăng, từ nay cho đến trọn đời sẽ không sát sinh, nguyện giữ giới Ưu Bà Tắc. Sáu mươi hiền giả sau khi được nghe Đức Phật thuyết pháp, vô cùng vui mừng đảnh lễ Phật và lui ra.

***