Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh Con đường Tu Hành

PHẬT THUYẾT

KINH CON ĐƯỜNG TU HÀNH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẨM BA MƯƠI

BỒ TÁT
 

Người tu hành tu hành tự tư duy: Con người ở trong sinh tử, giống như bánh xe quay lộn lên xuống mà không rời mặt đất. Trước sau như vậy, họa hoạn qua lại chẳng lìa ba cõi, đều là do ngu si chẳng biết vốn là không, cho là có bốn đại thật, nương vào đó là vững chắc.

Lại như có người thấy huyễn thuật biến hóa hình người mà cho là người thật, chẳng biết là do biến hóa thành. Người ngu cũng vậy, tham đắm ngã của ta cho là thân mạng, chẳng hiểu thể của nó là địa, thủy, hỏa, phong.

Ví như có bọn người đi xa, muốn đến chơi ở nước khác, từ lâu nghe có tai nạn dọc đường nên thường lo lắng sợ có giặc cướp, nhìn quanh bốn phía, xa thấy những ngọn núi có các tảng đá, và cây cối cho là có giặc cướp, cỡi ngựa, số cả trăm, ngàn, tự nhủ, biết tính sao đây?

Rồi mạnh ai nấy chạy, tán loạn, chẳng biết trốn đâu.

Trong đó có người dẫn đường, kêu nói với mọi người: Chớ nên bỏ chạy đến chỗ nạn lớn, không có nước nôi!

Hoặc gặp khốn cùng, chẳng cứu được mạng. Hoặc khổn khó túng quẩn, mới trở về lại, tới lùi đã lâu, lại thêm khổ nhọc. Của cải mất sạch, nương tựa vào đâu. Rách rưới đói lạnh, lại phải nhờ vả, đem thân mình nương gởi nhà giàu. Hãy tự an tâm cùng nhau khuyến hóa, sai người thám thính, nếu không có giặc thì nên đi tới. Giả sử có giặc đến thì quyết chí cùng đánh, khiến giặc tan chạy.

Vì sao?

Vì một người liều chết, mười người chẳng đương. Mười người liều chết, trăm người chẳng đương. Trăm người liều chết thì ngàn người chẳng đương. Ngàn người liều chết thì vạn người chẳng đương. Vạn người liều chết thì tung hoành thien hạ.

Mọi người nghe theo, không còn chạy nữa, đều đứng yên lại, đợi sai người thám thính. Chỉ thấy các loại cây cỏ ngói đá, hoàn toàn không có giặc cướp. Mọi người đều vui mừng. Bấy giờ mới tiếp tục đi, cho người dẫn đường là vô song, trí tuệ thông suốt, thật hiếm có trong đời. Cử động tới dừng đều tuân theo lệnh của người ấy. Không dám chống lại.

Bồ Tát đại nhân tu hành cũng vậy, vì tất cả mà hướng dẫn, giảng giải ba cõi là không, tất cả như biến hóa, năm ấm như huyễn. Chẳng chán sinh tử mà diệt thân, hóa độ khắp mười phương, chỉ bày con đường chân chánh, ngợi khen Bồ Tát lâu xa không bạn.

Lăn lộn trong ba cõi độ thoát sinh tử. Đệ tử chí nhỏ thường ôm lòng sợ sệt, chỉ muốn diệt thân chẳng màng tất cả. Chẳng được cứu cánh nên lại thoái lui. Từ khi mới phát ý người thông minh nhân đây nghe lời giáo huấn của Bồ Tát đều phát tâm cầu đạo Vô thượng chân chanh.

Bài tụng rằng:

Bồ Tát vì người tu giảng giải

Tất cả là không thân như huyễn

Nhân duyên hợp thành có thân này

Tâm luôn bất chánh chạy theo tà.

Ví như người buôn, buôn bán xa

Xa thấy cây rừng cho là giặc

Ai cũng sợ hãi đều chạy lánh

Đạo Sư giảng giải tâm mới an.

Bồ Tát cũng vậy, giảng nghĩa không

Vì tất cả người rộng nói pháp

Chỉ cho đệ tử đạo sâu xa

Như Mặt Trời mọc xua mây mờ.

Bồ Tát học đạo dần dần tiến tới đạt trí tuệ cao tột. Dựa vào sáu Độ cao xa, phân biệt nghĩa không, tích lũy công đức trải qua vô kiếp mới đắc quả Phật. Ví như có người tuổi trẻ ra làm quan, mới đầu thì nghèo khổ sau chuyển thành giàu to, cầu làm Thừa ủy, rồi thanh Lệnh Trưởng, tấn hai ngàn thạch sau thăng Châu Mục, Tứ Chinh, Công Khanh Đại Thần.

Rồi dần đến Đế vương, Chuyển luân Thánh Vương, Thiên Đế phạm tôn. Hành đạo Bồ Tát học theo thứ lớp cũng y như vậy, dần dần phát ý bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, kiềm chế sáu tình, trừ khử ba độc, sự che khuất của ấm, suy, hướng đến pháp không, vô tướng, vô nguyện, đạt tới nẻo bất thoái chuyển, gần hoàn thành đầy đủ mọi viec, ở quả vị nhất sinh bổ xứ.

Giống như mài gương, tẩy, dập, sửa bằng phẳng miếng thiếc, dần dần làm cho trơn láng mới phát ánh sáng. Dần dần tập hành sáu pháp Ba la mật, tích công lũy đức, kiếp số chẳng thể tính đếm, tự chứng đắc quả vị Phật, khai độ mười phương.

Bài tụng rằng:

Như người trẻ làm quan

Thừa ủy rồi Lệnh trưởng

Hai ngàn thạch Châu mục

Tứ chinh đến Công khanh.

Đại Vương rồi Chuyển luân

Nhật nguyệt, Thiên Đế Thích

Bồ Tát cũng như vậy

Tích công đức dần dần.

Hành sáu Ba La Mật

Tu cho đắc Phật quả

Giáo hóa mười phương chúng

Đều khiến được an lạc.

Bồ Tát học định tinh chuyên nhất tâm, dần bỏ các cấu, tâm chí biến hóa. Ví như có người muốn đi vào biển, ngày lại tháng qua cứ vẫn tiến hành, chẳng hề thoái lui.

Tuy bị đói rét, chưa từng lay chuyển, chẳng kể khổ nhọc, mệt mỏi, xa gần, đi chẳng nghỉ ngơi, mới tới bờ biển, cùng mọi người lên thuyền, vào biển tìm kiếm châu báu. Tuy biết có ba nạn nhưng chẳng lấy làm run sợ, đến cung điện, chỗ ở của Vua Đại Long Vương, theo cầu xin ngọc báu Như ý tuyệt diệu để chu cấp cho kẻ cùng khốn.

Long Vương cấp cho, bảo là bố thí tất cả chớ đừng nuối tiếc. Mọi người đều nhờ vào ánh sáng của viên ngọc, nhưng ngọc chẳng hao giảm. Người ấy được ngọc, tạ ân và vội va trở về, khắp cả nước đều được an ổn.

Bồ Tát cũng vậy, hành đạo với tâm bình đẳng, muốn cứu chúng sinh phải từ bi hoan hỷ, hộ trì, nhất tâm nghĩ đến Phật dù bất kỳ ở đâu cũng tinh chuyên hướng về, chưa từng bê trễ, bảy ngày, mười ngày, ba tháng một năm chẳng khởi tưởng dục.

Nhất tâm hướng Phật và hóa độ chúng sinh, nương vào giáo pháp sâu rộng của Đại Thừa, thấy mười phương Phật, thọ giáo đắc định, vì tất cả giảng thuyết tam muội bất động. Ví như từ Long Vương được ngọc Như ý, ban cho khắp mọi người.

Ví như có người nghe trên Cõi Trời có ngọc nữ, đoan chánh, đẹp đẽ, ý muốn đến xem mà không có thần túc, sớm tối tơ tưởng nằm ngồi chẳng quên. Trải qua bao nhiêu năm chưa từng xao lãng, nên ở trong mộng thấy được ngọc nữ ngồi đứng tới lui.

Bồ Tát cũng vậy, nhất tâm tư duy đến bất cứ Phật ở phương nào, lâu năm chẳng dứt thì chứng đắc tam muội, kiên quyết hành trì chẳng lười mỏi, nhiều kiếp chẳng nản thì đạt đến quả Phật. Bồ Tát hành đạo đại từ, đại bi xót thương tất cả.

Xưa có một người mù chẳng thấy ánh sáng Mặt Trời, trong lòng lo buồn áy náy: Tuy có ánh sáng Mặt Trời mà mat ta đui mù chẳng thấy, phải làm sao đây?

Tìm được thần sư cho uống cam lồ, nội bệnh tiêu trừ mắt được sáng tỏ, thấy được ánh sáng Mặt Trời, quan sát tám phương trên dưới và muôn dân. Lúc mới phát đại tâm, sáu nhập, năm ấm, ba độc chưa trừ thì chẳng thể thấy được Chư Phật mười phương.

Từ khi thành tựu thọ pháp Bồ Tát, thâm nhập giáo lý hành bốn Đẳng tâm, rõ ba cõi là không liền đắc tam muội thấy mười phương Phật. Từ định ý đứng dậy cứu giúp chúng sinh.

Ví như châu báu đặt trên thủy tinh, như dùng đồ vật gì đó đựng lưu ly thì màu sắc của lưu ly khiến cho đồ vật đó có cùng hình tượng. Bồ Tát cũng thế, nhất tâm nghĩ đến Phật, không có niệm khác, liền đắc định ý thấy mười phương Phật. Do oai thần của Phật đạt được bốn đức thấy Phật Thế Tôn.

Bài tụng rằng:

Ví như có người đi vào biển

Chưa từng biếng trễ, đến mới thôi

Cùng người lên thuyền đến

Long Vương Xin ngọc

Như ý châu báu lớn.

Cho khắp tất cả đâu cũng nhờ

Bồ Tát cũng vậy, hành bốn ân

Đại từ, đại bi, hành đại đạo

Nhất tâm tinh tấn pháp tam muội.

Như người nghe trời có ngọc nữ

Sớm tối tơ tưởng mộng được thấy

Bồ Tát cũng thế, luôn tinh tấn

Thấy mười phương Phật khắp mọi nơi.

Lại như người mù nghĩ Mặt Trời

Lương y trị khỏi, mắt liền sáng

Bồ Tát cũng vậy, chuyên hướng Phật

Chưa từng dừng nghỉ, chẳng thoái chuyển.

Như châu báu đặt trên thủy tinh

Lần lượt ánh sáng chiếu khắp nơi

Định tam muội Bồ Tát cũng vậy

Từ Phật thọ giáo, hóa độ khắp.

Bồ Tát tích lũy công đức, muốn độ tất cả thị hiện như cha, thị hiện như mẹ, thị hiện như con, thị hiện như thân… bình đẳng không sai khác, vì năm đường chúng sinh chịu cực khổ vô cùng mà chẳng cho là khổ.

Tuy trải qua họa hoạn sinh tử trong năm đường, cái khổ của địa ngục, cái căm giận của ngạ quỷ, cái não hại của súc sinh, cái tai ách theo sinh tử của Cõi Trời, cõi người mà tâm chẳng khuynh động, hành đại từ bi đối với bốn ân không nan, cứu giúp mười phương khỏi các niệm tưởng.

Ví như ánh trăng kia khi mới mọc thì nhỏ như sừng dê. Lần lớn lên cho đến tròn đầy, ánh sáng chiếu khắp độc sáng giữa các sao.

Thứ lớp học đạo, hành pháp Bồ Tát: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí tuệ, trải qua vô số kiếp siêng năng khổ hạnh, thân tâm tương ưng, ngôn hành hợp nhất, nghĩ mười phương chúng sinh như cha mẹ, không có thân, sơ.

Ví như trồng cây, ban đầu nảy mầm, sau mọc thành, thân, cành nhánh, lá, hoa, quả, dần dần nên hình. Tu hành cũng như thế, khi mới phát ý, hoan hỷ hướng Phật. Dùng tâm hoan hỷ đạt được sự chấm dứt cõi ác, thành tựu sáu pháp Ba La Mật, nhập vào phương tiện khéo léo, đạt pháp nhẫn bất khởi, nhất thiết Phật tuệ, mà chuyển pháp luân, thị hiện diệt độ, phân bố đại pháp, đời sau nhờ ân.

Giống như có người muốn xây nhà lớn, trước san bằng mặt đất, kế đến đắp nền, dần dần xây tường, mới thành cao lớn. Dùng loại gỗ tốt quý làm rường cột vững chắc, dùng ngói lợp lên, bùn đất bôi trét. Làm xong xuôi rồi, sáng sủa khoáng đãng. Tường trắng, cột đỏ, nghiêm trang đẹp đẽ. Sau đó, mời bà con thân tộc, bạn bè, hàng xóm… khắp cả, ăn uống, trổi nhạc rất vui vẻ.

Bồ Tát cũng thế, chứa hạnh vô lượng, chẳng vì khổ nhọc mà lười biếng chán nản. Thấy chúng sinh kia, xoay vần nơi năm đường, tử sinh lăn lộn như đá mài bất định nên phát đại từ bi, trí tuệ không bị che khuất, muốn cứu độ tất cả, giống như hư không, bao trùm tất cả, đạo đức đã thành, hiện cả ba cõi, biểu thị sắc, thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chúng sinh thấy đều vui mừng. Vì mười phương chúng sinh mà gầm tiếng gầm của sư tử, tất cả nghe tiếng, thảy đều quy phục, theo bốn tâm mình, thành hạnh ba thừa.

Khi ấy, tụng rằng:

Bồ Tát mới phát tâm

Thương yêu khắp mười phương

Như cha, mẹ, con, thân

Bình đẳng, chẳng mong cầu.

Dần dần phát thành tích

Như cây mọc mầm, thân

Đến cành lá hoa quả

Công người trồng chẳng phí.

Bồ Tát cũng như thế

Phụng hành đạo, dần dần

Công đức sẽ tròn đầy

Bình đẳng, rất an lành.

Giống như xây nhà lớn

San đất xây nền, tường

Dần dần thành cao lớn

Che lợp, rất hoàn chỉnh.

Mời bà con, làng xóm

Ăn uống, ca nhạc vui

Bồ Tát cứu chúng sinh

Độ thoát, ban ánh đạo.

Thế nào gọi là vượt sự tu hành, vừa phát đạo ý đã đạt bất thoái chuyển, không do đâu phát sinh mà thành tựu đầy đủ A duy nhan?

Do nhân duyên đặc biệt nào mà đầy đủ hạnh Bồ Tát như vậy?

Hiểu rõ ba cõi là không, năm ấm không có chỗ nương, bốn đế không có cội gốc, duyên tưởng mà sinh. Mười hai nhân duyên si là đầu mối, quán sát đầu mối của si không có nơi chốn. Có đắm vào mong cầu thì gọi là si. Người trí hiểu rõ là không có.

Ví như nhà ảo thuật trở lại xem người hóa hiện ra, chẳng thấy có người. Bồ Tát cũng thế, thức tỉnh ba cõi là không, giống như bóng nước, như mộng huyễn, như cây chuối, như tiếng vang trong núi sâu, chỉ có tiếng vang mà không có thật. Xưa có người nằm mộng, thấy có một nước dân chúng đông đúc, Vua rất nghiêm khắc, quần thần phụng sự, chẳng dám trái ý, ngũ cốc dồi dào, y phục sặc sỡ, xướng ca vui vẻ.

Người ấy thấy rồi vui mừng ngắm xem, đi đến yết kiến quốc vương, nhà Vua liền lập làm đại thần, ban cho quan chức, nô bộc, tùy tùng, ruộng nhà, bảy báu, vui mừng không xiết. Lại thấy mình bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hóa thân lừa, ở trong bầy cất tiếng kêu. Bỗng nhiên lên Cõi Trời, cung điện bằng bảy báu, cùng vui vậy với ngọc nữ.

Từ mộng tỉnh dậy chẳng thấy gì hết, tự hiểu rõ năm đường như mộng, tất cả vốn không chẳng nắm bắt được. Phân biệt tuệ này thì chẳng thoái chuyển, đạt chỗ vô cùng, quyền tuệ đầy đủ, thông suốt đại đạo, quán tâm như huyễn, năm ấm, sáu nhập thì giống như quần thần.

Pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, ở trong năm đường đều giống như người kia tỉnh mộng, thấy không có cái thấy, cũng không có mộng tưởng. Đó gọi là siêu việt, đạt đến trí tuệ Ba La Mật mà chẳng dựa vào thứ lớp.

Bài tụng rằng:

Thân người và năm ấm

Quán chúng không chỗ nương

Bốn Đế, mười hai duyên

Tất cả đều như huyễn.

Như ban đêm mộng thấy

Một nước rất an vui

Vua lập làm đại thần

Ca nhạc và giàu có.

Vào địa ngục, ngạ quỷ

Làm lừa cất tiếng kêu

Lên trời điện bảy báu

Tỉnh dậy, chẳng thấy gì.

Người trí quán ba cõi

Năm ấm đều như mộng

Vì rõ không nơi chốn

Mới đắc nhẫn bất khởi.

Đạo pháp chẳng xa gần

Như không, không sở xứ

Tâm không, rõ vốn không

Bỗng như ánh Mặt Trời.

Trí tuệ ngay lúc ấy

Không được cũng không mất

Đạo không có ba đời

Ngộ rồi vốn như như.

Sao gọi là vượt qua sự tu hành?

Con người vốn là một, do chẳng hiểu biết nên khởi chấp cái ngã của ta, vừa đắm chấp liền bị ràng buộc, mà cầu giải thoát. Chẳng đắm chấp thì không bị ràng buộc, cần gì cầu giải thoát.

Ví như có năm hiện tượng ở trong hư không là mây, mù, bụi, khói, tro chẳng thể làm dơ bẩn hư không kia. Tâm vốn như hư không, cái độc của năm ấm giống như năm hiện tượng nọ, chẳng che lấp được. Hiểu rõ tâm vốn vô hình, trí tuệ không ngăn ngại, vào sâu pháp nhẫn chẳng theo thứ lớp.

Ví như có người từng là thường dân, nhà rất túng thiếu, đi đến chỗ Phật, theo đàn việt xin ăn, phát khởi hảo tâm: Thân con do tội lỗi từ đời trước chẳng thể bố thí, nay bị nghèo khó, áo chẳng che thân, cơm chẳng no miệng lại chẳng làm phước, ăn nhờ cơm Phật. Nếu con có của cải sẽ cúng dường Phật và Thánh chúng, chu cấp đầy đủ cho người thiếu thốn nghèo cùng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn và Thánh chúng đều tự lui ra.

Người ăn xin tự trách: Ta vốn bạc phước, chẳng thể làm việc phước đức, chịu cảnh thiếu thốn. Nghĩ vậy rồi, nằm dưới bóng cây, khi Mặt Trời chiếu xiên, các bóng cây khác đều di chuyển, nhưng bóng dưới cây chỗ người ấy nằm không di chuyển, bụi bặm trên thân thể đều được trừ sạch, tự nhiên có oai đức.

Khi ấy, quốc vương băng hà, đang cần hiền nhân để nối ngôi, chiêu mộ khắp nơi trong cả nước chỉ thấy người ăn xin có oai đức khác thường, bóng cây phủ che như tàng lọng, sư giả đến thưa với quần thần, ca ngợi oai đức của người ấy, dân chúng đều vui mừng chuẩn bị xa giá để nghênh đón, lập làm quốc vương. Lên ngôi hoàng đế rồi, chấn hưng đức hóa khắp cả nước, cúng Phật và Thánh chúng.

Người ở trong cái khổ sinh tử của năm đường, năm ấm, sáu nhập, mười hai nhân duyên, nghe giáo pháp sâu xa của Phật, bản thân không có trí tuệ nhưng tâm đại từ, đại bi trội hơn tất cả. Tuy muốn độ người mà chẳng thấy có người độ và không có đối tượng được độ, chẳng thấy có ngã của ta, ba cõi như tiếng vang, tất cả đều vô ngã.

Giống như hư không, siêu nhập trí tuệ, pháp bất thoái chuyển được nhất sinh bổ xứ. Không từ đâu sinh gọi đó hưu đức mà không có sở đắc. Ví như Mặt Trời mọc thì bóng tối tiêu tan trở thành bình đẳng, không có thân sơ, chẳng thấy có ràng buộc cũng không có giải thoát.

Cũng như núi vàng không do tạo tác, người tìm vàng hiểu biết tự do đến đó mà lấy, chẳng hề thấy khó nhọc. Con người vốn thanh tịnh không cấu uế, hiểu rõ tuệ này liền vào cửa đạo không có chướng ngại giống như hư không tự trong sạch, chứ không có ai làm trong sạch.

Bài tụng rằng:

Như người từ lâu nghèo

Theo Thánh chúng xin ăn

Trở lại tự trách mình

Xưa ta chứa tội lỗi.

Liền phát tâm cung kính

Nghĩ thương khắp chúng sinh

Nếu được làm đế vương

Chẩn phát cho muôn dân.

Rồi nằm dưới bóng cây

Bóng cây che thân hình

Sứ giả thưa quần thần

Đến nơi để nghênh đón.

Lập lên làm quốc vương

Phụng Phật và Thánh chúng

Bồ Tát cũng như thế

Siêu vượt, hiểu vốn tịnh

Phước đức cao vời vợi

Độ thoát chư quần sinh

Hư không chẳng bị nhớp

Tâm tịnh như hoa núi

Cứu giúp khổ năm đường

Khiến trừ sợ sinh tử

Như trăng sáng ngày rằm

Riêng tỏa giữa các sao.

Xưa có một người muốn đến xem Phật là người như thế nào, thân hình ra sao, mục đích của giáo lý là gì?

Tôn Giả A Nan trông thấy từ xa, đến trước Phật, bạch: Người từ xa đi đến là người nào?

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Là người chưa từng có.

Người ấy đến trước Đức Phật, muốn được nhìn Phật, nhưng chẳng thấy Ngài, thân Phật bỗng nhiên biến khỏi tòa ngồi.

Người ấy tự nghĩ: Cố đến xem Phật mà không thấy Ngài. Quán sát suy nghĩ tại sao vậy. Liền tự hiểu rõ Pháp Thân của Thế Tôn vốn không có hình tướng, nhưng vì cái ngã nhân của ta mà hiện ra thân này. Ví như trong núi sâu, người kêu lên thì có tiếng vang, do dội lại mà có tiếng.

Pháp Thân không có nơi chốn thì vì sao muốn thấy?

Vừa tư duy như thế rồi liền đạt được nhất sinh bổ xứ, không từ đâu sinh, trong ngoài bình đẳng như hư không, siêu nhập Chánh giác.

Bài tụng rằng:

Xưa có người khởi ý

Muốn gặp Phật Thế Tôn

Để biết ngài ra sao

Lời dạy như thế nào.

A Nan hỏi người ấy

Phật dạy chưa từng có

Thân Ngài chợt biến mất

Quái lạ nương vào đâu.

Tự phát tuệ hiểu rõ

Thân Phật không đi đâu

Tuệ an trụ thể không

Thị hiện ra cùng khắp.

Đạo pháp như tiếng vang

Tâm bình đẳng không oán

Người hiểu nghĩa như thế

Như hư không trùm khắp.

Bồ Tát phát tâm muốn cứu tất cả, quán thân bốn đại do nhân duyên hợp thành, giống như huyễn hóa, cũng như vật giả chẳng phải sở hữu của ta, chẳng phải của người khác.

Giống như ghép gỗ thành người gỗ do vận hành mới cử động, người ngu thấy vậy cho là người thật, người trí tuệ biết rõ đó là gỗ ghép lại, không có người. Tất cả ba cõi đều không, như sắc, thống, tưởng, hành, thức, mười hai nhân duyên vốn không có sự qua lại, như bóng dưới nước không có hình tướng hành giả như vậy, siêu nhập thành trì chánh pháp.

Bài tụng rằng:

Bồ Tát mới phát tâm

Hiểu bốn đại vốn không

Xem sinh tử Nê Hoàn

Tất cả đều giống nhau.

Ví như mượn vật người

Thường trả lại chỗ cũ

Chẳng nghĩ về nhân ngã

Trừ bỏ các tối tăm.

Chẳng thấy tâm ý thức

Đạo sáng vượt biển sông

Tam giới như huyễn hóa

Bồ Tát thọ phúng tụng.

Năm đường như dợn nắng

Các ác là giống Phật

Khuyến hóa kẻ chưa hiểu

Pháp Thân chẳng chuyển động.

Hoặc người trí tuệ tự nhiên phát ý: Sự tu hành của Như Lai không do lời nói mà đạt đến chánh giác, như ánh Mặt Trời đồng thời chiếu khắp. Người hiểu nghĩa không thì không có quan niệm đạo tục, bình đẳng như hư không, vĩnh viễn vắng lặng chẳng thể gọi tên.

Ví như trong ao bùn giữa đồng trống, không có gieo trồng tự nhiên mọc lên cây hoa sen xanh, hoa phù dung. Bồ Tát cũng vậy ở trong an ái, hoạn nạn của ba cõi bỗng nhiên phát tuệ, chẳng thấy sinh tử, chẳng trụ Nê Hoàn, giáo hóa tất cả khiến đến an lạc.

Bài tụng rằng:

Ngay khi phát tâm làm Bồ Tát

Phân biệt nghĩa không hiểu ngọn ngành

Vì nhập đạo pháp không gì thiếu

Đầy đủ trí tuệ đạt thần thông.

Giống như hoa sen xanh tại bùn

Như Lai phát ý thành Bồ Đề

Giáo hóa tất cả loài chúng sinh

Đều trụ pháp môn thành Chánh Giác.

Hoa xanh trong bùn sạch tốt tươi

Bốn loại màu dụ cho bốn đảnh

Nhất sinh bổ xứ vượt thứ lớp

Sức mạnh hơn định Thủ Lăng Nghiêm.

Bồ Tát tu đạo giống như chim bay trong hư không không gì vướng mắc, vì lấy hư không làm chỗ nương nên chẳng sợ hư không. Bồ Tát cũng vậy, trong khoảnh khắc phát ý liền nhập đạo tuệ, đầy đủ phương tiện quyền xảo, tâm bình đẳng như hư không, không dừng ở nơi đâu, chẳng lìa sinh tử, không ưa Nê hoàn đều chẳng tăng giảm.

Ví như năm loại màu sắc sặc sỡ khác nhau đều sinh từ thảo mộc. Rễ của thảo mộc đều phát sinh từ đất, dưới đất có nước, dưới nước có gió, gió do không mà có. Như vậy tìm căn nguyên đều không sở hữu. Giống như mây nổi bỗng có hơi đến, không biết đến đâu.

Bồ Tát cũng thế, hiểu rõ ba cõi là không giống như gió thổi không thể dừng lại, hễ chấp có ngã của ta liền có ba cõi, chẳng thấy có ngã, đâu chấp có bỉ, chẳng rõ vô minh, vô tịnh, bất tịnh. Liền nhập bổn vô cũng không xuất nhập. Ví như xưa có con trùng nhỏ, trong ruột có kim cương, ở bên bờ biển.

Đại thọ Diêm phù cao bốn ngàn dặm, cây bị chấn động, không thể đứng yên, thần cây hỏi: Vì sao ngươi bị chấn động, chẳng yên?

Cây đáp: Có trùng nhỏ ở trên thân ta nên chẳng yên.

Thần lại hỏi: Chim lớn cánh vàng đậu trên mình ngươi, tại sao không động, mà con trùng nhỏ ở trên lại sợ hãi?

Cây đáp: Trùng này tuy nhỏ nhưng bụng chứa kim cương, ta không thể thắng được vì vậy lay động.

Con trùng nhỏ ấy là Bồ Tát phát tâm, cây đại thọ ấy là ba cõi. Cây động chẳng yên là Bồ Tát phát tâm vượt đến trí tuệ sâu xa, đạt Nhất sinh bổ xứ, đạt tam thiên đại thiên Thế Giới, chấn động sáu cách. Chim cánh vang đậu trên cây không động là các đệ tử tuy đã thành tựu bốn đạo nhưng không có khả năng cảm hóa.

Bài tụng rằng:

Ví như trùng nhỏ ở trên cây

Run sợ chẳng an cành lá rụng

Bồ Tát, Đại Sĩ, cũng như vậy

Siêu thoát thành tựu động ba ngàn.

Tâm ngài kiên cố như kim cương

Độ thoát tất cả họa sinh tử

Đệ tử giống như chim cánh vàng

Ở trong ba cõi chẳng độ ai.

Bồ Tát rõ tuệ thâm nhập vi diệu, không theo thứ lớp. Ví như có người từ dân được lập làm Vua, kẻ phàm phu hiểu rõ về bổn vô, tâm ngang bằng hư không, không có nơi chốn, đạt Nhất sinh bổ xứ.

Xưa trong hư không, bỗng có cây thuốc cành lá phủ khắp bốn phía, dưới trên, hơi nó tỏa xuống, ố khí của các cây cỏ độc đều tiêu, nuôi lớn thiên hạ, những con người tốt, lớn nhỏ đều bình an, đất cao làm cho bằng, chỗ thấp thì nâng lên cao thiên hạ thái bình, không có khe hang và các gò núi.

Bảy báu tự nhiên mưa bằng cam lồ, dân chúng lớn nhỏ ai nấy đều vui mừng cho là ta, vốn có phước, xa lìa các hoạn, ra vào đi lại không sợ nạn gì, không có nỗi khổ do thú dữ, đạo tặc, nhờ cây thuốc tự nhiên mà được bình an mưa thuận gió hoa, ngũ cốc dồi dào, sắc mặt hòa vui, áo cơm tự có, không hề lo phiền.

Giống như đại thọ hốt nhiên sinh nơi hư không, che khắp thiên hạ, nếu có phàm phu ở trong sinh tử bỗng hiểu trí tuệ sâu xa đạt được bổn vô không còn vướng mắc, chiếu khắp thiên hạ thì gọi người ấy là Bồ Tát, phóng ra ánh sáng lớn để thành Phật, trừ tất cả cấu bẩn nơi dâm, nộ, si của con người.

Nuôi lớn khiến được an lạc làm cho bốn chúng phụng hành đạo nghĩa. Khiến chỗ cao thấp bằng nhau là làm cho năm đường chúng sinh đạt được tuệ bình đẳng. Bảy báu tự nhiên là bảy giác ý. Mưa cam lồ là giảng pháp Bồ Tát. Dân chúng an ổn, ngũ cốc dồi dào là sinh tử chấm dứt, đạt năm thần thông, liền đạt nghĩa lớn, đạt Nhất sinh bổ xứ.

Bài tụng rằng:

Như người dân được lập làm Vua

Bồ Tát Đại Sĩ cũng như vậy

Hiểu rõ tuệ sâu đến cùng tột

Chứng đắc quả Phật độ mười phương.

Giống như hư không sinh đại thọ

Cây to cành lá phân bốn phía

Tỏa khắp tám hướng trên và dưới

Đất đai bằng phẳng ngũ cốc nhiều.

Thân người phàm phu trong sinh tử

Bỗng hiểu pháp sâu: Tuệ hiện khắp

Độ mười phương cõi thoát ba đường

Với tâm bình đẳng mưa cam lồ.

***