Kinh Đại thừa
Bộ Kinh Tập
PHẬT THUYẾT KINH
ĐÀ LA NI THÁNH TỐI THẮNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
Như vậy tôi nghe!
Một thời Đức Phật ngự tại Tịnh Xá Ngu Di Nẵng trong đại thành Tinh Tả thuộc nước Ba La Bát Đa. Qua Hạ đó xong, đến ngày 20 tháng 9 có một vị Bật Sô tên là Phộc Dã Khư Nẵng.
Thời vị Bật Sô ấy ra khỏi đại thành Tinh Tả đến một nơi cách thành Chi Na khoảng bốn do tuần, nhìn thấy một Đại Nhân đứng giữa đường, thân dài ba trượng, mặt dài bốn xích bốn thước Tàu thì biết đó là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nên liền lễ bàn chân, quỳ dài, chắp tay bạch với Bồ Tát rằng: Vì sao hiện thân mà đi đến chốn này?
Xét có nhân duyên chi?
Bồ Tát đáp rằng: Như thị! Như thị! Này Bật Sô! Các hàng chúng sinh trong cõi Đêm Phù Đề này đang có bệnh khổ. Nhóm A Tu La, Ca Lâu La trụ ở một mặt của núi Tu Di Tu Di Sơn Vương với các người Trời đang cùng nhau giao chiến. Thế nên mặt trời, mặt trăng không có ánh sáng, tinh thần các vì sao chẳng hiện.
Người Trời bị thua, Tu La được thắng.
Thời các quỷ thân thần nhân đây được dịp thuận tiện hố hình người nữ gây não loạn chúng sinh, sinh các bệnh tật: Hoặc đau đầu, đau bụng, đau mắt tai mũi…
Hoặc sinh ung nhọt, rôm sảy, chứng tràng nhạt, bệnh trĩ, bệnh lậu, ghẻ lở, bệnh cùi hủi, nổi nhọt bọc, Hắc Lào …
Hoặc lại bị bệnh sốt rét phát theo thời hoặc cách mộc ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày phát bệnh một lần. Cho đến bệnh trúng gió, bệnh vàng da, bệnh đàm rãi, bệnh đau bộ phận sinh dục, tất cả bệnh ác.
Lại bên trong cõi Diêm Phù Đề, tuôn mưa gió lớn.
Hoặc lạnh, hoặc nóng, hoặc lụt lội, hoặc hạn hán... ngũ cốc chẳng nhiều, người dân đói kém thảy đều bị chết yểu.
Lại hiện nhóm thù: Cọp, sói, sư tử, Miểu Noa … xâm tổn hữu tình, cướp đoạt tinh khí của người.
Như vậy mọi nạn tranh nhau gây bức não.
Khi ấy đại nhân nói việc đó xong thì bảo Bật Sô rằng: Ta có Thánh Tối Thắng Đà La Ni tăng trưởng căn lành, hay trừ các ác. Nếu lại có người phát tâm trong sạch đem nhóm hương hoa… cúng dường Tam Bảo với cá Hiền Thánh. Ngày đêm ở trong Thất khiết tịnh trai giới, tụng Đà La Ni này thì các chúng nạn liền được tiêu trừ.
Đà La Ni là: Nẵng mô bà nga phộc đổ, vĩ ma la một địa, nghiễm tỳ la, nga lý nhĩ đa, la nhạ tả, đát tha nga đa tả.
Đát nễ dã tha: Vĩ ma la, nga lý nhị đế, vĩ ma la du nễ thủy, a la nga đế, a la nga đế, sa phộc hạ.
NAMO BHAGAVATO VIMALA BUDDHI GAMBHÌRA GARJITA RÀJASYA TATHÀGATASYA TADYATHÀ: VIMALA GARJITE, VIMALA YONI’SE, ÀLAGATE ÀLAGATE SVÀHÀ.
Nẵng ma sa lý phộc nễ phộc la noa vĩ sắt kiếm tỳ nẵng tát đát tha nga đa tả.
Đát nễ dã tha: Hứ, ma hứ, ma hạ ma hứ, sa phộc hạ.
NAMAHÏ SARVA NÌVARANÏA VISKAMBHINAS TATHÀGATASYA TADYATHÀ: HE MAHE, MAHÀ MAHE SVÀHÀ.
Nẵng mô ngu noa ca la tả, đát tha nga đa tả.
Đát nễ dã tha: Nga nga nẵng ca lý, nga nga nẵng tam bà phệ, nga nga nẵng chỉ lý để đế, sa phộc hạ.
NAMO GUNÏAKARASYA TATHÀGATASYA TADYATHÀ: GAGANAKARI, GAGANA SAMÏBHAVE, GAGANA KÌRTITE SVÀHÀ.
Nẵng mô tam mãn đa hiến độ đa ma tả, đát tha nga đa tả.
Đát nễ dã tha: Tam ma duệ, sa phộc hạ.
NAMO SAMANTA GANDHOTTAMASYA TATHÀGATASYA TADYATHÀ: SAMAYE SVÀHÀ.
Nẵng mô a ba la nhĩ đa, nga di nẵng sa đát tha nga đa tả.
Đát nễ dã tha: A ma, ma hứ, sa phộc hạ.
NAMO APARÀJITA GÀMINAS TATHÀGATASYA TADYATHÀ: AMÀT MAHÌ SVÀHÀ.
Nẵng mô ma nẵng sa đam bà tả, đát tha nga đa tả.
Đát nễ dã tha: Ma nẵng vĩ thú đệ, bát nột di thấp phộc lý, bát nột ma tam bà bệ, khẩn ca lý, hứ đán, ca lý duệ, sa phộc hạ.
NAMO MANASTAMBHASYA TATHÀGATASYA TADYATHÀ: MANA VI’SUDDHE, PADME’SVARI, PADMA SAMÏBHAVE, KIMÏKARI HITAMÏ KÀRYE SVÀHÀ.
Nẵng mô tát lý phộc một đà, mạo địa, tát đát phộc nam. Nẵng mô a lý dã mạn tổ thất lý dạ.
Đát nể dã tha: Nhạ duệ, nhạ duệ, la ma địa, hứ ma hứ, ma hạ ma hứ, sa phộc hạ.
NAMO SARVA BUDDHA BODHISATVÀNÀMÏ NAMO ÀRYA MAMÏJU’SRÌYA TADYATHÀ: JAYE JAYE RAMATI, HE MAHÌ, MAHÀ MAHÌ SVÀHÀ.
Nẵng mô a lý dã phộc lộ chỉ đế thấp phộc la tả, mạo địa tát đát phộc tả.
Đát nễ dã tha: Nga nga nẵng trà duệ, nga nga nẵng tam bà phệ, nga nga nẵng đặc duệ, nga nga nẵng vĩ cật lan đế, ê hạ duệ hứ, sa phộc hạ.
NAMO ÀRYA AVALOKITE’SVARASYA BODHISATVASYA TADYATHÀ: GAGANA ADÏYE, GAGANA SAMÏBHAVE, GAGANA MADYE, GAGANA VIKRÀNTE, EHYEHI SVÀHÀ.
Nẵng mô a lý dã tam mãn đa bạt nại la tả, đát tha nga đa tả.
Đát nễ dã tha: Hứ bạt nại lý, ma hạ bạt nại lý, a mật lý đa bạt nại lý, vĩ nga đa la nhạ tế, ma hạ vĩ nga đa la nhạ tế, sa phộc hạ.
NAMO ÀRYA SAMABTABHADRASYA TATHÀGATASYA TADYATHÀ: HE BHADRI, MAHÀBHADRI, AMRÏTA BHADRI, VIGATA RAJAS, MAHÀ VIGATA RAJAS SVÀHÀ.
Nẵng mạc a lý dã vĩ ma la chỉ lý đế đát tả, đát tha nga đa tả, a nễ chỉ lý để đa, tát lý phộc nhĩ nễ tỳ, phộc nhật la tam bà phệ, phộc nhật la tỳ nại ca lý, sa phộc hạ.
NAMAHÏ ÀRYA VIMALAKÌRTITASYA TATHÀGATASYA?
TADYATHÀ ANIKÌRTITA SARVA JIT NIR BHÌ, VAJRA SAMÏBHAVE, VAJRA BHIDA KARI SVÀHÀ.
Nẵng mạc tát lý phộc một đà mạo địa tát đát phộc nam.
Đát bễ dã tha: Khế đa ca la tỵ nhập phộc la nễ duệ, sa phộc hạ.
NAMAHÏ SAVA BUDDHA BODHISATVÀNÀMÏ TADYATHÀ: KETA KALÀPI JVALANÌYE SVÀHÀ.
Nhạ cảm bà nễ, sa đam bà nễ, mô hạ nễ, bôn noa lý ca dã, sa phộc hạ.
JAMBHANI STAMBHANI MOHANI PUNÏDÏARÌKÀYA SVÀHÀ.
Mô hạ nan đế, nan bà nễ duệ, sa phộc hạ.
MOHA DÀNTE, DAMBHANÌYE SVÀHÀ.
Nỗ la, vĩ nỗ lý duệ, ca la, vĩ cật lý đế, sa phộc hạ.
DHURA VIDHURÌYE KÀRA VIKRÏTE SVÀHÀ.
Tán đế, sa vĩ nễ lý phộc ba nễ duệ, sa phộc hạ.
‘SÀNTE ‘SIVI NIRVÀPANÏÌYE SVÀHÀ.
Nỗ la, vĩ nỗ lý duệ, sa phộc hạ.
DHURA VIDHURÌYE SVÀHÀ.
Lãm ma tố noa dã, sa phộc hạ.
LAMBA CUDÏÀYA SVÀHÀ.
Lộ chỉ ca, lộ câu đa la dã, sa phộc hạ.
LOKIKA LOKOTTARÀYA SVÀHÀ.
A nghê dã nẵng, vĩ luân đạt nễ duệ, sa phộc hạ.
AJNÕÀNA VI’SODHANÌYE SVÀHÀ.
Đà đổ ca lý duệ, sa phộc hạ.
DHÀTU KÀRYE SVÀHÀ.
Di già, sa phổ tra nẵng dã, sa phộc hạ.
MEGHA SPHOTÏANÀYA SVÀHÀ.
Một la hám nhị, nga la hạ dã, sa phộc hạ.
BRAHME GRAHÀYA SVÀHÀ.
Tát lý phộc ca lý ma tỳ thủy cật đa dã, sa phộc hạ.
SARVA KARMA ABHI’SIKTÀYA SVÀHÀ.
Tát lý phộc một đà tỳ tăng sa cật lý đa dã, sa phộc hạ.
SARVA BUDDHA ABHISAMÏSKRỌTÀYA SVÀHÀ.
Ê ca thất lăng nga dã, sa phộc hạ.
EKA ‘SRINÕGÀYA SVÀHÀ.
Bộ đa dã, sa phộc hạ.
BHUTÀYA SVÀHÀ.
A bộ đa dã, sa phộc hạ.
ABHUTÀYA SVÀHÀ.
Tát lý phộc nột khế, ba xá ma dã, sa phộc hạ.
SARVA DUHÏKHA UPA’SAMÀYA SVÀHÀ.
Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói Thánh Tối Thắng Đà La Ni này xong thì bảo Bật Sô rằng: Các ông y theo nghi tắc của chánh pháp này, mỗi ngày chí thành phát tâm trong sạch cúng bảy vị Tỳ Kheo, cúng dường Tam Bảo với cá Hiền Thánh. Vào đầu đêm, làm Hộ Ma, thắp lửa sáng sẽ hay trừ tai, mau được tiêu tan tật bệnh hoạn.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện đối với chánh pháp này, thọ trì, đọc tụng, rộng vì người nói thì tất cả các bệnh đều được trừ khỏi.
Lại nữa Văn Thù Sư Lợi bảo Bật Sô rằng: Nay ông hãy lắng nghe!
Thánh Tối Thắng Đà La Ni này có sức sáng tỏ to lớn, rộng lợi chúng sinh. Hãy nên ở cõi Diêm Phù Đề lưu truyền nơi nơi, hết thảy đất nước, thành, ấp, tụ lạc … khiến các chúng sinh lắng nghe, thọ trì.
Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện hay đối với Kinh này đọc tụng một biến thì mau được trừ khỏi bệnh khổ của thân mình. Nếu đọc hai biến thì hết thảy bệnh khổ của vợ con, nam nữ đều được trừ khỏi.
Nếu đọc ba biến thì hết thảy bệnh khổ của tất cả quyến thuộc thảy đều trừ khỏi. Nếu đọc bốn biến thì hết thảy bệnh khổ của người dân trong một nước đều được trừ khỏi. Nếu đọc năm biến thì tất cả người dân trong đất nước nhỏ do Vua ban phong đều được an vui, không có các bệnh tật.
Lại nữa Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: Nay chánh pháp này có lợi ích rộng lớn thâm sâu, rất hiếm có. Hãy mau lưu truyền khiến cho các hữu tình được công đức trên.
Nếu đối với Kinh này, sinh tâm khinh mạn, chẳng chịu thọ trì đọc tụng, chẳng vì người diễn nói lưu truyền, tất cả chúng sinh ở trong đất nước, chẳng ai được nghe… thì người ấy vướng lỗi lầm như tội năm nghịch. Chính vì thế cho nên, Bật Sô đối với Thánh Tối Thắng Đà La Ni này cần phải tin kính không để cho quên mất.
Ta tự điều phục nhóm Chư Thiên với A Tu La, Càn Thát Bà trụ ở một mặt của núi Tu Di ấy Tu Di Sơn Vương khiến cho chúng sinh của cõi Diêm Phù Đề được an vui lớn.
Thời Văn Thù Sư Lợi nói pháp đó xong, đột nhiện chẳng hiện. Bật Sô Phộc Dã Khư Nẵng nghe điều đã nói ấy thì tâm rất vui vẻ, tin nhận phụng hành.
***