Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Bảo Tích

PHẬT THUYẾT 

KINH ĐẠI BẢO TÍCH

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Nan Liên Đề Gia Xá, Đời Cao Tế
 

PHÁP HỘI THỨ BA MƯƠI MỐT

PHÁP HỘI

HẰNG HÀ THƯỢNG ƯU BÀ DI
 

Như vậy tôi nghe một lúc Đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc. Bấy giờ thành Xá Vệ có Ưu Bà Di tên Hằng Hà Thượng từ nhà đến chỗ Đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một phía.

Đức Thế Tôn hỏi Ưu Bà Di ấy rằng: Ngươi từ đâu đến?

Bạch Đức Thế Tôn!

Nếu hỏi hoá nhân rằng từ đâu đến?

Hỏi như vậy thì phải trả lời thế nào?

Này Ưu Bà Di! Luận về hóa nhân không có vãng lai cũng không sanh diệt đâu nên nói là có chỗ từ đó mà đến.

Bạch Đức Thế Tôn! Các pháp há chẳng phải đều như hóa cả ư?

Nấy Ưu Bà Di! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều như hóa thì sao hỏi rằng ngươi từ đâu đến?

Này Ưu Bà Di! Người huyễn hóa ấy chẳng đế ác đạo chẳng sanh lên Trời chẳng chứng Niết Bàn, này Hằng Hà Thượng!

Ngươi cũng như vậy sao?

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tôi thấy thân khác với huyễn hóa mới nên nói là qua ác đạo sanh thiện đạo chứng Niết Bàn. Tôi chẳng thấy thân khác với huyễn hóa thì sao lại nói là qua ác đạo sanh thiện đạo chứng Niết Bàn.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Như tánh Niết Bàn cứu cánh chẳng còn sanh thiệt ác đạo và Niết Bàn, tôi xem thân mình cũng vậy.

Này Ưu Bà Di! Ngươi há chẳng xu hướng Niết Bàn giới ư?

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu đem lời hỏi này hỏi nơi vô sanh thì nên trả lời thế nào?

Này Ưu Bà Di! Vô sanh tức là Niết Bàn vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Các pháp há chẳng để đồng Niết Bàn ư?

Này Ưu Bà Di! Đúng vậy. Đúng như lời ngươi nói.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đồng Niết Bàn thì sao lại hỏi ngươi há chẳng xu hướng Niết Bàn giới sao ư?

Lại nữa bạch Đức Thế Tôn! Ví như hóa nhân hỏi hóa nhân ngươi há chẳng xu hướng Niết Bàn ư?

Họ sẽ phải đáp thế nào?

Này Ưu Bà Di! Họ hỏi như vậy không có phan duyên.

Bạch Đức Thế Tôn! Đức Như Lai há lại dùng phan duyên để nêu lời hỏi ấy?

Nấy Ưu Bà Di! Lời ta hỏi cũng không phan duyên, nhưng vì trong Pháp Hội đây có thiện nam tử, thiện nữ nhân đáng được thành thục nên ta phát lời hỏi ấy.

Tại sao?

Vì Như Lai ở nơi danh tự các pháp ấy còn là bất khả đắc thì nào có các pháp và kẻ hay xu hướng Niết Bàn kia.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu như vậy thì sao lại vì bồ đề mà tích tập thiện căn, vì Chư Bồ Tát và chư thiện căn đều là bất khả đắc.

Này Ưu Bà Di! Lúc tích tập tức vô tâm vậy, lúc chẳng phải tích tập cũng như vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Vô tâm được nói ấy là muốn thuyết minh nghĩa gì?

Này Ưu Bà Di! Pháp ấy chẳng phải tư duy biết được cũng chẳng phải tư duy đến được.

Tại sao?

Vì trong ấy tâm còn là bất khả đắc huống là pháp được tâm sanh. Do vì tâm bất khả đắc nên gọi là chỗ bất tư nghị. Chỗ bất tư nghị ấy chẳng phải đắc chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh.

Tại sao?

Vì Như Lai thường nói các pháp như hư không không có chướng ngại vậy.

Bạch Đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như hư không sao Đức Thế Tôn lại nói các sắc có các sác thọ tưởng hành thức cùng các giới xứ mười hai nhân duyên hữu lậu vô lậu nhiễm là tịnh sanh tử Niết Bàn?

Này Ưu Bà Di! Như nói rằng: Ngã, dầu có lời nói mà thiệt không có ngã tướng để được. Ta nói các sắc cũng thiệt không có sắc tướng để được nhẫn đến nói Niết Bàn cũng không có Niết Bàn tướng để được.

Này Ưu Bà Di! Trong pháp của ta những người tu phạm hạnh thấy tất cả pháp đều vô sở đắc mới được gọi là người chân tu phạm hạnh. Còn người tăng thượng mạn nói hữu sở đắc thì chẳng gọi là an trụ chân phạm hạnh.

Người tăng thượng mạn như vậy nghe thâm pháp này sanh lòng rất khinh nghi, họ chẳng giải thoát được sanh lão bệnh tử ưu bi khổ não.

Này Ưu Bà Di! Sau khi ta diệt độ có người hay diễn thuyết pháp đoạn dứt lưu chuyễn thậm thâm này, có kẻ ngu si vì ác kiến nên đối Pháp Sư sanh lòng sân hận, do đây họ bị sa đọa địa ngục.

Bạch Đức Thế Tôn! Như Đức Phật nói pháp dứt lưu chuyển, do nghĩa gì mà gọi tên dứt lưu chuyển?

Này Ưu Bà Di! Dứt lưu chuển là nói thiệt tế bất tư nghị giới, pháp này chẳng thể xoi đục trở hoại nên gọi tên là pháp dứt lưu chuyển. Bấy giờ Đức Thế Tôn vui vẻ mỉm cười, từ diện môn phóng ra những tia sáng xanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê chiếu suốt khắp vô lượng Thế Giới trên đến Trời Phạm Thế rồi xong về nhập vào đảnh Đức Như Lai.

Tôn Giả A Nan thấy sự ấy liền đứng dậy trịch vai hữu chấm đức chấp tay cung kính bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! o nhân duyên gì mà hiện mỉm cười?

Đức Phật phán: Này A Nan! Ta nhớ quá khứ có ngàn Đức Như Lai cũng tại xứ này nói pháp như vậy, trong các chúng hội kia cũng có Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di làm Thượng Thủ. Ưu Bà Di kia và các các đại chúng nghe Chư Như Lai kia nói pháp này rồi đều xuất gia ở nơi Vô Dư Niết Bàn mà được diệt độ.

Tôn Giả A Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nên đặt tên Kinh này là gì, chúng tôi phải thọ trì thế nào?

Đức Phật phán: Này A Nan! Kinh này tên là Vô Cấu Thanh Tịnh, các ông nên thọ trì như vậy. Lúc nói Kinh này có bảy trăm Tỳ Kheo và bốn trăm Tỳ Kheo biết hẳn các lậu tâm được giải thoát.

Chư Thiên Cõi Dục đem các thứ hoa Trời rải lên Đức Phật mà nói rằng: Ưu Bà Di này rất hy hữu có thể cùng Đức Như Lai đối đáp được vô sở úy. Người này đã từng ở chỗ vô lượng Chư Phật thân cận cúng dường vun trồng các thiện căn.

Đức Phật nói Kinh này rồi, hằng hà thượng Ưu Bà Di và hàng Đại Chúng Thiên Long, Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

***