Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Bát Niết Bàn

 

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Đàm Vô Sấm, Đời Bắc Lương
 

PHẨM MƯỜI BA

PHẨM VĂN TỰ
 

Phật bảo Ca Diếp Bồ Tát: Bao nhiêu những dị luận, chú thuật, ngôn ngữ, văn tự, đều là của Phật nói, chẳng phải của ngoại đạo nói.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Đức Như Lai nói văn tự căn bổn ra thế nào?

Phật nói: Này thiện nam tử! Ban đầu nói bán tự để làm căn bổn, để ghi nhận những thật pháp, như ký luận, chú thuật, văn chương, các ấm. Hạng phàm phu học bán tự căn bổn này mới biết được những pháp đó là chẳng phải pháp.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Bán tự của Phật nói nghĩa như thế nào?

Này thiện nam tử! Có mười bốn âm gọi là nghĩa của bán tự. Tự ở đây nói gọi là Niết Bàn. Vì là thường, nên chẳng lưu chuyển. Nếu chẳng lưu chuyển, thời là vô tận. Vô tận chính là thân Kim Cang của Như Lai.

Mười bốn âm là căn bổn của tự. A là chẳng phá hoại, chẳng phá hoại gọi là Tam Bảo, dụ như chất Kim Cang. Lại A là chẳng lưu dật, chẳng lưu dật tức là Như Lai.

Vì cửu khiếu của Như Lai không có chảy ra, nên là chẳng lưu dật. Lại không có cửu khiếu, nên chẳng lưu dật. Chẳng lưu dật, thời là thường, thường chính là Như Lai. Vì thế Như Lai không tạo tác, nên chẳng lưu dật. Lại A gọi là công đức, công đức tức là Tam Bảo, nên gọi là A.

A, gọi là A Xà Lê, A Xà Lê nghĩa là gì?

Chính là người được trong đời gọi là bậc Thánh. Thánh là không chấp trước, thiểu dục, tri túc, thanh tịnh, có thể cứu độ chúng sanh thoát khỏi biển lớn sanh tử trong ba cõi. Lại A là chế độ, tu trì giới thanh tịnh, tùy thuận oai nghi. Lại A là nương nơi Thánh Nhân để học oai nghi, đứng, đi, hành động, cúng dường, cung kính, lễ bái Tam Bảo, thảo nuôi cha mẹ.

Và hàng Thiện Nam, cùng Thiện Nữ học tập đại thừa, thọ trì đủ cấm giới, và các vị Đại Bồ Tát, đây gọi là Thánh Nhân.

Lại A là giáo hối. Như nói các ngươi phải làm như thế này, chẳng nên làm như thế này. Nếu có thể ngăn dứt những điều chẳng phải oai nghi, thời gọi là Thánh Nhân. Vì thế nên gọi là A.

Y là Phật Pháp. Hạnh thanh tịnh rộng lớn, trong sạch không nhơ như Mặt Trăng tròn, các ngươi nên làm như vậy, chẳng được làm như vậy, nghĩa này phải, nghĩa này chẳng phải, đây là lời Phật nói, đây là lời ma nói. Vì thế nên gọi là Y.

Y, là Phật Pháp vi diệu rất sâu khó đặng. Như Đại Tự Tại Thiên, Đại Phạm Thiên Vương gọi rằng tự tại. Nếu có thể thọ trì Phật Pháp, thời gọi là Hộ Pháp. Lại tự tại chỉ cho bốn bậc Hộ thế, bốn bậc Tự tại này thời có thể nhiếp hộ Kinh Đại Niết Bàn cũng có thể tự tại tuyên dương giảng thuyết.

Lại Y là có thể vì chúng sanh thuyết pháp tự tại. Lại Y là vì được tự tại nên thuyết pháp tức là tu tập Kinh Điển đại thừa Phương Đẳng. Lại Y là dứt tật đố, như dọn sạch cỏ rác, đều có thể làm cho trở thành tốt lành. Vì thế nên gọi là Y. 

Ưu, là tối thượng, tối thắng, tăng trưởng thượng thượng trong các Kinh tức là Đại Niết Bàn. Lại Ưu là Như Lai tánh, hàng Thanh Văn, Duyên Giác chưa từng nghe biết. Như Bắc Câu Lô Châu hơn hết các châu. Bồ Tát nếu nghe thọ được Kinh này, thời là tối thắng, tối thượng đối với tất cả đại chúng. Vì thế nên gọi là Ưu.

Ưu ưu, ví như sữa bò hơn hết trong các thức ăn. Như Lai tánh cũng vậy, là tối tôn tối thượng ở trong các Kinh. Nếu có kẻ chê bai hủy báng Như Lai tánh phải biết người này không khác với bò.

Lại Ưu ưu là nói người trên đây là kẻ không có trí huệ chánh niệm, chê bai tạng Như Lai tạng Như Lai bí mật. Người này rất đáng thương xót ngoài tạng Như Lai bí mật mà nói không ngã, không pháp. Vì thế nên gọi là Ưu ưu. Yên là Phật Tánh Niết Bàn.

Dã là nghĩa Như Lai. Lại Dã là Như Lai đứng, đi, cử động không gì chẳng lợi ích tất cả chúng sanh. Vì thế nên gọi là Dã.

Ô là nghĩa phiền não. Phiền não gọi là những hữu lậu. Đức Như Lai dứt hẳn tất cả phiền não. Vì thế nên gọi là Ô.

Pháo, là nghĩa đại thừa, nghĩa rốt ráo trong mười bốn âm. Kinh Điển đại thừa cũng vậy, là rốt ráo trong các Kinh Luận. Vì thế nên gọi là Pháo.

Am, có thể ngăn tất cả những vật bất tịnh, nơi trong Phật Pháp có thể bỏ tất cả vàng bạc, châu báu. Vì thế nên gọi là Am.

Ă, là nghĩa thắng thừa. Kinh Điển đại thừa Đại Niết Bàn đây hơn hết trong các Kinh vì thế nên gọi là Ca. Đối với các chúng sanh khởi lòng từ bi tưởng như con ruột như La Hầu La làm những việc nghĩa, lành tốt đẹp. Vì thế nên gọi là Ca.

Khư, gọi là bạn chẳng lành. Bạn chẳng lành gọi là dơ dáy, chẳng tin tạng Như Lai bí mật. Vì thế nên gọi là Khư.

Dà, gọi là tạng. Tức là tạng Như Lai bí mật. Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh vì thế nên gọi là Dà.

Rằng, là âm vận thường hằng của Như Lai tức là Như Lai thường trụ chẳng biến đổi. Vì thế nên gọi là Rằng.

Nga, là tướng phá họai của tất cả các hành pháp.

Giá, Nghĩa là tu. Điều phục tất cả chúng sanh gọi đó là tu. Vì thế nên gọi là Giá.

Xa, Như Lai che chở tất cả chúng sanh dụ như cây lọng lớn. Vì thế nên gọi là Xa.

Xà, là chánh giải thoát không có tướng già. Vì thế nên gọi là Xà.

Thà, là phiền não rậm rợp như lùm rừng vì thế nên gọi là Thà.

Nhã, là nghĩa trí huệ, biết pháp tánh chân thật. Vì thế nên gọi là Nhã.

Tra, là ở nơi cõi Diêm Phù Đề thị hiện bán thân mà Thuyết Pháp, ví như bán nguyệt. Vì thế nên gọi là Tra.

Trạch, là pháp thân đầy đủ ví như mãn nguyệt. Vì thế nên gọi là Trạch.

Trà, là ngu si Tăng, chẳng biết thường, cùng với vô thường ví như trẻ nít. Vì thế nên gọi là Trà.

Tổ, là chẳng biết ơn thầy, ví như con dê đực. Vì thế nên gọi là Tổ.

Noa, là nghĩa chẳng phải Thánh, dụ như ngoại đạo. Vì thế nên gọi là Noa.

Đa, Đức Như Lai một lúc kia bảo các Tỳ Kheo, các ông nên lìa sự kinh sợ, sẽ vì các ông nói pháp vi diệu. Vì thế nên gọi là Đa.

Tha, là nghĩa ngu si, chúng sanh lưu chuyển trong dòng sanh tử, như tằm làm kén, như bọ ngựa làm ổ. Vì thế nên gọi là Tha.

Đà, là bố thí lớn, tức là đại thừa. Vì thế nên gọi là Đà.

Đạn, là khen ngợi công đức, tức là Tam Bảo, như núi Tu Di cao vọi rộng lớn, không có nghiêng ngã. Cho nên gọi là Đạn.

Na, là Tam Bảo an trụ không có nghiêng động, ví như ngạch cửa. Nên gọi là Na.

Ba, là nghĩa điên đảo, như nói, Tam Bảo thảy đều dứt mất, nên biết người này là tự nghi hoặc điên đảo. Vì thế nên gọi là Ba.

Phả, là tai họa thế gian nếu nói rằng lúc tai họa thế gian khởi lên thời Tam Bảo cũng dứt mất, nên biết người này là kẻ ngu si vô trí, trái với ý nghĩa của Thánh Nhân. Vì thế nên gọi là Phả.

Bà, là mười trí lực của Phật.

Phạm, là gánh nặng, có thể kham nhiệm gánh mang chánh pháp vô thượng nên biết người này là Đại Bồ Tát. Vì thế nên gọi là Phạm.

Ma, là chế độ nghiêm tuấn của Bồ Tát, tức là đại thừa. Đại Niết Bàn. Vì thế nên gọi là Ma.

Gia, là các vị Bồ Tát, ở mọi nơi chỗ, vì các chúng sanh nói pháp đại thừa. Vì thế nên gọi là Gia.

Ra, là có thể phá hoại tham dục, sân khuể, ngu si mà nói pháp chân thật. Vì thế nên gọi là Ra.

Là, là Thanh Văn thừa động chuyển chẳng dừng, đại thừa bền vững không có lay động. Bỏ Thanh Văn thừa, siêng năng tu tập vô thượng đại thừa. Vì thế nên gọi là là.

Hòa, Đức Như Lai Thế Tôn vì các chúng sanh rưới mưa pháp lớn, như những chú thuật, Kinh Sách thế gian. Vì thế nên gọi là Hòa.

Sa, xa lìa ba mũi tên độc. Vì thế nên gọi là Sa.

Sá là, nghĩa đầy đủ, nếu nghe được Kinh Đại Niết Bàn này, thời là đã đặng nghe và thọ trì tất cả Kinh Điển đại thừa. Vì thế nên gọi là Sá.

Ta, vì các chúng sanh diễn nói chánh pháp làm cho lòng họ vui mừng. Nên gọi là Ta.

Ha, là tâm hoan hỷ, lạ lùng thay Đức Thế Tôn rời tất cả hành vi. Lạ thay Đức Như Lai nhập Niết Bàn. Vì thế nên gọi là Ha.

La, là nghĩa ma, vô lượng loài ma không thể hủy hoại tạng bí mật của Như Lai cho nên gọi là La. Lại La là nhẫn đến thị hiện tùy thuận thế gian, mà có cha mẹ vợ con. Vì thế nên gọi là La.

Lỗ, Lưu, Lư, Lâu, bốn chữ như vậy nói có bốn nghĩa tức là Phật, Pháp, Tăng và đối pháp. Đối pháp là tùy thuận thế gian, như Đề Bà, Đạt Đa thị hiện phá Tăng, hóa làm các thứ hình dáng sắc tượng để làm duyên cho Phật chế giới. Người trí rõ thấu chẳng nên đối với việc này mà sanh lòng sợ sệt. Đây gọi là những hành vi tùy thuận thế gian vì thế nên gọi là Lỗ, Lưu, Lư, Lâu.

Hít khí trời cuống lưỡi theo tiếng lỗ mũi tiếng dài, ngắn, cao, thấp theo giọng nói để giãi bày ý nghĩa đều do lưỡi, răng mà có sai khác. Những chữ nghĩa như vậy có thể làm cho chúng sanh khẩu nghiệp thanh tịnh.

Phật Tánh của chúng sanh thời không phải nhờ nơi văn tự rồi sau mới được thanh tịnh, vì Phật Tánh vẫn thanh tịnh, nên dầu ở trong ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới, nhưng chẳng đồng với ngũ ấm, lục nhập, thập bát giới.

Vì thế nên chúng sanh đều phải quy y. Các vị Bồ Tát do nơi Phật Tánh mà đều coi chúng sanh bình đẳng như nhau không có sai khác. Vì thế nên bán tự làm căn bổn của những Kinh Sách, ký luận, văn chương.

Lại nghĩa của bán tự đều là căn bổn của phiền não ngôn thuyết. Nghĩa của mãn tự thời là căn bổn của tất cả thiện pháp ngôn thuyết.

Ví như trong đời, người làm ác gọi là bán nhân, người tu hành gọi là mãn nhân. Cũng vậy, tất cả Kinh Sách ký luận đều do bán tự làm căn bổn.

Nếu nói Như Lai là chánh giải thoát, vào trong phạm vi bán tự, lời nói này không đúng. Vì Như Lai và chánh giải thoát rời danh tự. Do đó nên Đức Như Lai đối với tất cả pháp, không chướng ngại, không đắm trước mà đặng chân thật giải thoát.

Thế nào gọi là hiểu rõ chữ nghĩa?

Có người biết Đức Như Lai hiện ra nơi đời có thể dứt được bán tự, nên gọi là hiểu rõ chữ nghĩa. Nếu có kẻ chạy theo nghĩa bán tự thời người này chẳng biết được tánh Như Lai.

Thế nào gọi là nghĩa vô tự?

Người gần gũi tu tập Pháp bất thiện, đây gọi là vô tự. Lại người vô tự dầu có thể gần gũi tu tập pháp lành, nhưng chẳng biết Như Lai là thường cùng vô thường, hằng cùng chẳng phải hằng, chẳng biết Pháp và Tăng, luật cùng phi luật, Kinh cùng chẳng phải Kinh, chẳng biết lời ma, lời Phật.

Nếu người không thể phân biệt rõ biết như vậy, thời gọi là chạy theo nghĩa vô tự. Nay ta đã nói, chạy theo nghĩa vô tự như vậy, cùng nghĩa bán tự và mãn tự, nên các ông phải rời bán tự khéo hiểu mãn tự.

Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: Thế Tôn! Chúng tôi phải nên khéo học tự số. Nay tôi được gặp ngay đức thầy vô thượng, đã lãnh thọ những lời dạy bảo ân cần của Như Lai.

Đức Phật khen ngợi Ca Diếp Bồ Tát: Lành thay! Lành thay! Người ưa thích chánh pháp phải học như vậy.

***