Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Bi

PHẬT THUYẾT KINH ĐẠI BI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Na Liên Đề Da Xá, Đời Cao Tề
 

PHẨM MỘT

PHẨM PHẠM THIÊN
 

Tôi nghe như vậy, một thuở nọ Đức Phật ở tại thành Câu Thi Na, ở giữa nơi hai cây Sa La Song Thọ. Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn sắp nhập Niết Bàn.

Liền dạy cho Ngài A Nan rằng: Hãy lấy đồ bày ra giữa hai cây Sa La Song Thọ.

Sau đó Đức Phật nằm xuống xoay đầu về bên mặt như dáng Sư Tử nằm và nói: Ta sẽ nhập Niết Bàn vào đêm nay. 

Này A Nan, khi ta vào Niết Bàn sẽ đoạn trừ tất cả những lời nói. Ta đã làm những việc mà Chư Phật đã làm. Nói pháp Cam Lồ làm lợi lạc quần sanh. Tịch diệt, vắng lặng, sâu xa vi diệu, khó thấy khó biết, khó có thể đo lường.

Người trí có thể hiểu được pháp của Thánh Hiền. Ta đã ba lần chuyển pháp luân vô thượng. Nếu có Sa Môn Bà La Môn. Nếu có Trời, ma hoặc Phạm Vương hoặc loài người. Và đời cùng với người không thể chuyển pháp, ta đã giảng trống pháp, thời pháp loa, dựng pháp tràng, làm thuyền pháp, tạo cầu pháp, mưa pháp vũ.

Ta đã chiếu sáng cho ba ngàn đại thiên Thế Giới, diệt trừ chỗ tối tăm. Mở bày cho chúng sanh giải thoát, làm cho Trời người được sung mãn chánh tín. Người nào có thể độ, đều đã được độ xong.

Ta đã hàng phục tất cả ngoại đạo và các luận sự khác. Nơi động ma cung điện tuy có thế lực của ma. Nhưng tiếng Sư Tử gầm đã làm các Phật Sự.

Làm cái việc của bậc trượng phu đã xong lời nguyện. Giúp đỡ giáo pháp Thanh Văn và thọ ký cho Bồ Tát. Chỉ vì tương lai giáo pháp của Phật không mất vậy.

Này A Nan! Ta nay đến sau không làm gì nữa, chỉ vào Đại Bát Niết Bàn.

Lúc bấy giờ Ngài A Nan nghe lời ấy rồi, liền buồn khổ vô cùng, khóc lóc sướt mướt mà bạch Phật rằng: Kính bạch Ngài! Bà Già Bà! Niết Bàn quá nhanh.

Tu Già Bà! Niết Bàn quá nhanh. Mắt thế gian không còn nữa, thế gian cô độc. Thế gian không cứu được, không có người dẫn đường.

Lúc bấy giờ Đức Phật bảo Ngài Huệ Mệnh A Nan rằng: Đừng có lo buồn! Pháp có sanh tất có diệt, phải có hoại. Nếu không mất thì không đúng vậy.

Ta nói thêm rằng: Tất cả những ái nhiễm, đều khó xa lìa.

Vậy A Nan! Ta chỉ vì lòng từ không hai. Cả tâm và thân không có ác. Ngươi đã hiếu dưỡng tùy thuận làm thị giả giúp đỡ ta vô hạn.

Này A Nam! Nếu có Trời, Người, A Tu La v.v… cho việc cúng dường Thanh Văn Duyên Giác, nếu giảm một kiếp hoặc mãn một kiếp, lại cùng với việc phụng dưỡng Như Lai, đối với việc ấy phước lại nhiều hơn. Cho đến cúng dường các vị Phật có thần thông lớn và lúc vào Niết Bàn, thì được công đức rất lớn.

Ví như Cam Lồ trong các Cam Lồ. Cuối cùng của Cam Lồ là Niết Bàn vậy. Như vậy đó A Nam, hãy đừng buồn khổ. Khi Ngài A Nam lo buồn khóc than như thế thì Đức Như Lai đã ở giữa hai cây Sa La Song Thọ.

Giống như Sư Tử nằm xoay về hướng bên mặt trên chỗ nằm. Tức thời ba ngàn đại thiên Thế Giới, cho đến cây cối hoa cỏ trong vườn rừng, đều hướng về nơi Đức Phật Nhập Niết Bàn.

Có kẻ muốn đến, muốn gần gũi, muốn đến chỗ Phật, cho đến cả ba ngàn Thế Giới lớn nhỏ, cả những sông lớn sông nhỏ, ao hồ v.v… vì thần lực của Phật mà ngưng chảy.

Trong ba ngàn Thế Giới lớn nhỏ có các muông thú, vì thần lực của Phật mà mặc nhiên đứng yên không hót không ăn.

Trong ba ngàn Thế Giới lớn nhỏ mặt trời, mặt trăng không di động. Các lửa dữ và lửa đang thiêu đốt vì thần lực của Phật mà không hiện hữu.

Không có ánh sáng nào có thể chiếu nóng. Trong ba ngàn Thế Giới nếu có lửa mạnh, nhờ vào thần lực của Phật mà tiêu diệt đi.

Không thể tự đốt cháy được. Trong ba ngàn Thế Giới nếu có lửa cháy trong địa ngục, nhờ thần lực của Phật mà tất cả trở nên mát mẻ.

Tại các địa ngục này các chúng sanh trong khoảng sát na, nhờ thần lực của Phật mà được an lạc. Trong ba ngàn đại thiên Thế Giới có súc sanh, tất cả đều khởi tâm từ và tâm bi mẫn. Không có tướng si não làm hại tánh mạng.

Tất cả ngạ quỷ không bị đói khát. Tất cả chúng sanh đều nhờ vào thần lực của Phật vậy. Thân tâm nhẹ nhàng lìa khổ được vui. Đầy đủ ý nghĩa đệ nhất an lạc.

Lúc ấy Đức Phật đang nằm day về phía mặt. Trong ba ngàn đại thiên Thế Giới có Vua núi Tu Di, núi Thiết Vi và núi Đại Thiết Vi, núi Mục Chân Lân Đà, Hương Sơn Tuyết Sơn và Hắc Sơn, đất lớn biển lớn tất cả đều bị chấn động bởi sáu loại.

Cho nên nhảy múa, khởi lên chấn động. Ba ngàn đại thiên Thế Giới tất cả phong luân đều không xuy động. Tất cả chúng sanh trong khoảng sát na, bỏ tất cả nghiệp được ở trong niềm vui, lìa sự ngủ nghỉ, tâm không tán loạn.

Muốn làm việc gì đều mặc nhiên không có tiếng. Ba ngàn đại thiên Thế Giới có Thiên Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Phạm Thiên, Thích Thiên, Hộ Thế Thiên v.v…

Nhờ thần lực của Phật mà thấy được các cung điện, chỗ ngồi và vườn rừng. Các bóng tối đều không có cơ hội trở lại, không sanh ái lạc. Quyến thuộc của họ ưu não chẳng vui.

Một ngàn Thế Giới chủ Phạm Thiên Vương, ba ngàn đại thiên Thế Giới chủ Đại Phạm Thiên Vương.

Cao tâm tự thị làm như vậy và nhớ như vậy để làm. Nhớ nghĩ Thế Giới này và các chúng sanh, đều do ta làm và do ta hóa thành.

Ba ngàn đại thiên Thế Giới chủ Đại Phạm Thiên kia, nhờ thần lực của Phật mà thấy được cung điện của họ và chỗ ngồi v.v…

Chỗ ám muội không có, không sanh ái lạc, Trời Ma Ê Thủ La ở Cõi Tịnh Cư v.v… cũng đều như vậy. Lúc bây giờ Đức Chủ Phạm Thiên Vương của ba ngàn đại thiên Thế Giới nhớ nghĩ thế này.

Lực này do ai mà sinh tướng này?

Làm cho ta không vui, cung điện chỗ ở, tức thời Đức Đại Phạm Thiên Vương biến vào trong ba ngàn Thế Giới hóa thành một vị Đại Tự Tại giàu có, biết rằng Đức Như Lai Ứng Cúng chánh biến tri, đêm nay sẽ vào Niết Bàn.

Cho nên mới hiện nên những thần lực biến hóa không thể nghĩ bàn, việc này chưa từng có.

Với thần lực này đúng là tướng của Như Lai sắp vào Niết Bàn.

Lúc ấy Đức Đại Phạm Vương liền nghĩ rằng: Ưu sầu không vui, lo lắng có việc và các phạm chúng cùng đến nơi Phật. Cùng với ba ngàn đại thiên Thế Giới với các Phạm Thiên đều cùng tín thọ Thánh pháp và an trụ nơi Thánh pháp ấy.

Lúc bấy giờ Chủ Đại Phạm Thiên Vương của ba ngàn đại thiên Thế Giới đến trước Phật rồi dập đầu đảnh lễ, đoạn bạch Phật rằng: Kính mong Đức Thế Tôn, Ngài dạy cho con, phải sống và tu hành như thế nào?

Nói lời ấy rồi, Như Lai tức thời hỏi vị Đại Phạm Vương rằng: Này Phạm Vương! Nay hãy làm và nghĩ như vậy Ta là Đại Phạm Thiên, ta hay thắng người, người không như ta, ta là người trí. Ta là đấng Đại Tự Tại trong ba ngàn đại thiên Thế Giới, ta đã tạo tác chúng sanh và hóa tác chúng sanh.

Ta có thể tạo ra Thế Giới và biến đổi Thế Giới chăng?

Đại Phạm Thiên trả lời rằng: Như vậy Đức Bạt Già Phạm, như vậy Ngài Tu Già Đà.

Phật bảo: Này Phạm Thiên! Nên biết ai làm và ai biến hóa ra. Lúc ấy Phạm Thiên mặc nhiên đứng lặng.

Phật thấy Phạm Thiên mặc nhiên đứng như thế, lại tiếp hỏi rằng: Phạm Thiên có lúc ba ngàn đại thiên Thế Giới, làm kiếp lửa thiêu đốt hết trọi là ý thế nào?

Đây có phải là việc làm, là việc hóa hiện chăng?

Lúc ấy Ngài Đại Phạm Thiên bạch Phật rằng: Không phải vậy, Thế Tôn.

Phật tiếp: Này Phạm Thiên! Như Đại Địa nương vào nước để tồn tại. Nước nương vào gió. Gió nương vào hư không. Như vậy Đại Địa dày sáu triệu tám trăm ngàn do tuần không rời ra, không tan biến.

Này Phạm Thiên! Ý đó ra sao?

Đây có phải là việc làm, việc hóa hiện chăng?

Phạm Vương trả lời rằng: Không phải vậy thưa Thế Tôn.

Phật tiếp: Này Phạm Thiên, trong ba ngàn Thế Giới lớn nhỏ này trong khi có trăm ngàn ức mặt trời, mặt trăng lưu chuyển thì Phạm Thiên thế nào?

Có phải hóa hiện ra chăng?

Phạm Thiên thưa rằng: Không phải thế! Bạch Đức Thế Tôn.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Có lúc Nhật Nguyệt Thiên Tử không ở tại cung điện, cung điện không hư.

Phạm Thiên! Điều ấy nghĩa gì?

Có phải do làm, có phải do hóa ra hay do thêm không?

Phạm Thiên bạch Phật: Không không như thế, bạch Đức Thế Tôn.

Đức Phật bảo: Này Phạm Thiên! Cũng giống như thời tiết Xuân Hạ Thu Đông.

Vì sao vậy?

Những điều này tự nhiên làm, tự nhiên hóa và tự nhiên thành tựu.

Phạm Thiên thưa rằng: Không phải thế, Thế Tôn.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Cũng giống như tấm kiếng của đèn dầu Ma Ni. Ngoài ánh sáng lên sắc vì kiếng trong sáng vậy. Cho nên Đại Địa, Sơn Hà, cây rừng, vườn nhà, cung điện, nhà cửa, tụ lạc, thành ấp, voi ngựa, nai hươu, chim muông, mặt trời, mặt trăng, vì sao, Thanh Văn Duyên Giác, Bồ Tát, Như Lai, Thích Phạm, hộ thế, người và không phải người v.v… mỗi loại đều hiện lên sắc tướng.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Tự nó hay làm, hay biến hóa, hay thành tựu.

Phạm Thiên thưa rằng: Không phải vậy, kính bạch Đức Thế Tôn.

Phật bảo: Này Phạm Thiên! Giống như núi cao, hố sâu, các đồ dụng cụ ca múa lớn nhỏ, nai hươu, chim thú, người và chẳng phải người v.v… đều tạo nên âm thanh.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Tự nó tạo nên, tự nó biến hóa, tự nó thành tựu?

Phạm Thiên thưa: Không phải vậy, bạch Đức Thế Tôn.

Phật bảo: Này Phạm Thiên! Như chúng sanh đang ở trong mộng thấy nhiều loài hình sắc khác nhau, nghe nhiều âm thanh như vậy, ngửi nhiều loại mùi hương, nếu nhiều vị khác nhau, hiểu nhiều loại cảm xúc, biết nhiều pháp, làm nên nhiều loại vui, nhiều loại tiếng khóc than, thọ những vui buồn lo sợ.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Vì chúng tự làm, tự biến hóa, tự thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Không phải vậy, bạch Đức Thế Tôn.

Phật bảo: Này Phạm Thiên! Như bốn loại người đoan chánh, xấu xa, bần cùng, giàu có phước đức nhiều ít. Giới lành, giới dữ, huệ lành, huệ dữ.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Có phải tự làm, tự biến hóa, tự thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Không phải vậy?

Bạch Đức Thế Tôn!

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Tất cả chúng sanh có sự lo lắng, khổ sở, não hại là vì nước, lửa, dao, gió lớn, độc dược, ác thú làm cho người cũng hư không phải người sợ hãi cùng với nhiều loại nguy hại khác nhau. Hay gây nên nhiều sự sợ hãi.

Này Phạm Vương! Vì sao vậy?

Có phải tự làm, tự biến hóa và tự thành tựu chăng?

Phạm Vương thưa: Không phải như thế, Thế Tôn.

Phật dạy rằng: Này Phạm Thiên! Chúng sanh tự có nhiều loại tật bệnh khác nhau. Ví như bệnh phong, lạnh, nóng và có nhiều bệnh khác. Do thời tiết thay đổi mà tứ đại không hòa. Nếu do tự làm hoặc do nghiệp báo từ trước, làm cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân bệnh.

Lại cũng có chúng sanh bị khổ não bởi tâm ý khác nhau.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Có phải tự làm, tự biến hóa và tự thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Không phải vậy, bạch Đức Thế Tôn.

Phật bảo: Này Phạm Thiên! Chúng sanh gặp những sự nguy hiểm như nước, lửa, nạn khổ v.v… hoặc trong kiếp đao binh bị tật bệnh lại sinh đói rét.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Có phải tự làm, tự sanh và tự thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Không phải vậy, bạch Đức Thế Tôn.

Đức Phật dạy: Này Phạm Thiên! Chúng sanh do sự khổ của tình thương yêu bị chia lìa. Do sự chia lìa với cha mẹ, huynh đệ, chị em, quyến thuộc, bạn hữu nên mới khổ.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Có phải tự làm, có phải tự hóa hiện và tự thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Không phải vậy, bạch Đức Thế Tôn.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Chúng sanh do tạo nhiều loại nghiệp ác khác nhau như mua rẻ, uống rượu, ngâm thuốc vào đồ ăn v.v… hoặc đi vào trong biển lớn gặp nơi nguy hiểm, đã dùng các phương thuật của tiên hoặc làm các phép diệt trừ.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Có phải do tự làm, tự biến hóa, tự thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Không phải vậy, bạch Đức Thế Tôn.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Do chúng sanh tạo tác nhiều đường dữ khác nhau. Đây là nguyên nhân vậy.

Nên phải đầu thai vào các chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh hoặc làm Trời người. Do chúng sanh từ thân, miệng, ý mà sinh ra việc lành việc dữ. Lại nữa thế gian cũng có mười nghiệp ác.

Đa phần chúng sanh không có tâm từ bi, làm các việc khổ não, không lợi ích cho nên là nhân duyên đọa vào đường ác. Do vì sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, tham si, tà kiến.

Này Phạm Vương! Vì sao vậy?

Có phải do tự làm, tự biến hóa, tự thành tựu chăng?

Phạm Vương thưa: Bạch Thế Tôn, không phải thế.

Phật bảo Phạm Vương rằng: Chúng sanh nguyên là có nhiều sự khổ khác nhau. Ví dụ như về đầu, tay, chân, mũi, tai v.v… nơi đây luôn bài tiết ra. Nóng bức khó chịu, như trong lửa, nóng nực. Bị đao kiếm cắt xéo v.v… bị giam vào ngục tối luôn luôn tranh tụng.

Này Phạm Vương! Vì sao vậy?

Có phải việc này tự làm, tự biến hóa và tự thành tựu chăng?

Phạm Vương thưa: Kính bạch Đức Thế Tôn! Không phải vậy.

Đức Phật dạy rằng: Này Phạm Vương! Chúng sanh hay làm việc dâm dục tà hạnh. Hoại dâm với mẹ, chị em hoặc người giữ giới thanh tịnh và các nghiệp ác.

Này Phạm Vương! Vì sao vậy?

Có phải việc này tự làm, tự biến hóa và tự thành tựu chăng?

Phạm Vương thưa: Kính bạch Đức Thế Tôn, không phải vậy.

Phật dạy: Này Phạm Vương! Chúng sanh lại có nhiều việc giết hại khác nhau. Ví như làm các thuốc độc để giết hoặc trù yếm bằng chú thuật các côn trùng. Cùng với nhiều loại ác nghiệp làm phương tiện và nhân duyên giết hại sinh mạng.

Này Phạm Vương! Vì sao vậy?

Điều ấy có phải do làm, do hóa hiện mà thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Kính bạch Thế Tôn, không phải vậy.

Phật bảo: Này Phạm Vương! Vì thế gian có sanh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não. Pháp vô thường, tận diệt và dễ biến đổi cùng với bốn tánh mà con người khó có thể quên được. Hay làm cho tất cả thương yêu, không yểm hoại. Nhiều vật bị bại hoại, ly tán.

Này Phạm Vương! Vì sao vậy?

Có phải do làm, do biến hóa mà thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Không phải thế, bạch Thế Tôn.

Phật bảo: Này Phạm Vương! Chúng sanh vì nghiệp chướng tham, sân, si mà nối kết cũng như liên hệ những loại phiền não khác nhau lại. Đây là nhân duyên để cho chúng sanh làm việc giận hờn và làm cho tâm bị mê hoặc vậy. Tạo tác rất nhiều các loại nghiệp khác nhau.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Có phải đây là việc tự làm, tự biến hóa và tự thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Kính bạch Đức Thế Tôn, không phải vậy.

Phật dạy: Này Phạm Thiên! Phải vào ba ác thú như địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Nơi này các chúng sanh vì những việc đã làm mà thọ những khổ não.

Này Phạm Vương! Vì sao vậy?

Có phải do làm, do biến hóa mà thành tựu chăng?

Phạm Vương thưa: Không phải thế, bạch Đức Thế Tôn.

Phật dạy: Này Phạm Vương! Tất cả các mầm mống nếu không có thì không sanh. Ví như cây thì sanh giống thuốc, lúc có nước thì sanh ra hoa quả, hương thơm.

Tất cả các vị ngọt đắng, chua, cay đều có. Tùy theo chúng sanh có ý hay không có ý mà tác hại như vậy.

Này Phạm Vương! Vì sao vậy?

Có phải do làm, do biến hóa mà thành tựu chăng?

Phạm Vương thưa: Không phải vậy, bạch Đức Thế Tôn.

Phật dạy: Này Phạm Vương! Năm đường lưu chuyển chết sống thành tựu và hoại diệt. Sở dĩ như vậy vì chúng sanh bị vô minh che đậy và tương ứng với ái dục mà có.

Đọa lạc lưu chuyển trước sau khó biết. Cùng với Đời sau sống chết cũng không rời khỏi chốn này.

Có thể làm người, Trời, hoặc ma, hoặc phản Sa Môn Bà La Môn. Điều này thế gian như đống chỉ rối. Thường hay lưu chuyển sanh chỗ này và qua chỗ kia.

Khi các chúng sanh này lưu chuyển như thế không biết không ra khỏi.

Này Phạm Thiên! Vì sao vậy?

Có phải do làm, do biến hóa mà thành tựu chăng?

Phạm Thiên thưa: Không phải thế! Đức Bà Già Bà.

Đức Phật dạy: Này Phạm Thiên! Từ nhân duyên gì mà làm việc nhớ nghĩ này?

Phải biết các chúng sanh này do mình tạo ra, do mình biến hóa, do mình thành tựu. Nên mới có Thế Giới này.

Do ta tạo nên, do ta biến hóa và do ta thành tựu?

Phạm Thiên thưa: Bạch Thế Tôn! Vì con không có trí, tà kiến, có tâm chưa đoạn điên đảo. Cùng vì không hay nghe Như Lai nói chánh pháp vậy. Con đã từ lâu làm việc ác kiến và nói những việc ác. Các chúng sanh này như con, tự mình làm và tự mình biến hóa, cho nên mới có Thế Giới này. Chính con tự làm, chính con tự biến hóa vậy.

Bạch Đức Thế Tôn, con nay lại xin hỏi Phật nghĩa này.

Như vậy với Thế Giới này, ai người làm ra, ai hóa hiện và tất cả chúng sanh do ai làm ra, do ai hóa hiện và do ai thành tựu?

Do ai sanh ra?

Phật bảo: Phạm Thiên! Thế Giới này do nghiệp tạo tác mà thành, do nghiệp biến hóa. Tất cả chúng sanh đều do nghiệp tạo tác và do nghiệp biến hóa và do nghiệp lực mà sanh ra.

Vì sao vậy?

Này Phạm Vương! Do vô minh nương vào hành, hành nương vào thức, thức nương vào danh sắc, danh sắc nương vào lục nhập, lục nhập nương vào xúc, xúc nương vào thọ, thọ nương vào ái, ái nương thủ, thủ nương hữu, hữu nương sanh, sanh nương vào lão tử, ưu lo khổ não. Do đây mà tập hợp lại các khổ.

Này Phạm Thiên! Nếu vô minh mất cho đến ưu bi khổ não hết thì không có kẻ làm, cũng không có người làm và người bị làm. Chỉ có nghiệp chịu trách nhiệm về việc này. Do sự hòa hợp nhân duyên mà có chúng sanh.

Nếu lìa nghiệp này thì pháp sẽ hòa hợp. Phải biết rằng người này có thể xa rời sanh tử mà lưu chuyển đi cõi khác.

Này Phạm Vương! Như thế, nếu thế gian nghiệp hết, phiền não hết, sự khổ hết nghĩa là xuất ly sự khổ. Điều ấy có tên là tịch định Niết Bàn.

Này Phạm Vương! Ai là người được Niết Bàn?

Đó là người nghiệp đã dứt, phiền não đã lìa và xa rời các khổ. Như vậy gọi là pháp. Do thần lực của Chư Phật vậy, Chư Phật gia hộ vậy.

Vì sao thế?

Này Phạm Vương! Nếu không có Chư Phật ra đời để nói pháp, tức không thể nghe được pháp như thế này.

Này Phạm Thiên! Nếu khi Chư Phật xuất hiện ở thế gian để nói pháp tịch định khó hiểu soi sáng pháp môn, nếu có chúng sanh nào khi nghe mà sanh pháp thì từ khi sanh đã được giải thoát. Được nghe các pháp về sanh, lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não. Chính từ các pháp lão, bệnh, tử, ưu bi, khổ não này mà được giải thoát.

Này Phạm Thiên! Đây là việc mà Chư Phật hiện làm và hiện thành tựu.

Này Phạm Thiên! Chư Phật làm điều này để chỉ dạy. Cho nên các việc làm ví như ánh sáng, hay thay đổi không thường, không nhất định và chẳng cứu cánh.

Cuối pháp sẽ sinh pháp. Ví như sau khi Chư Phật diệt độ thì chánh pháp chìm xuống.

Lại cũng như thế. Việc thị hiện cũng như vậy. Cho nên gọi chư hành giống như ánh sáng là vậy.

Nếu Phật không ở đời, tất cả các hành đều cùng trong sát na giống như ánh sáng vậy.

Tức không thể nói tất cả các hành giống như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang.

Này Phạm Thiên! Tất cả Chư Phật đều biết tất cả các hành này. Nên mới nói chư hành giống như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang.

Người trí hay biết tướng này vậy. Các tướng này đều do cái nghĩa từ nhân duyên vậy.

Nên biết các hành vô thường chuyển động, đến pháp cuối thì thay đổi. Làm cho phân tán thời tiết bị hư hoại, trung từng sát na và cho đến ngày đêm nửa tháng cho đến một tháng, một năm hoặc trăm năm.

Một kiếp cho đến một trăm kiếp, tất cả cuối cùng đều thay đổi. Có các loại lửa bị đổi thay.

Nước đông lại. Gió lớn thổi lên, Thế Giới đất đai lại trở về không.

Trong đó có núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, Tu Di Sơn và các Hắc Sơn v.v… đều trở thành không.

Mặt Trời, mặt trăng, sao mai và những quyến thuộc cũng trở về không. Không sáng, không chiếu trở lại đọa lạc.

Cung Điện của Chư Thiên cũng bị tiêu mất, cùng các cung điện, thủ đô, thành ấp, cây cối, rừng rậm, ao hồ và các việc vui cũng đều bị hoại diệt.

Chư Thiên sanh rồi lại mất, mất rồi lại sanh. Các bậc trí giả khi thấy việc này thường sanh tâm nhàm chán xa lìa.

Vì đây do các hành không thường hay hư hoại biến đổi như vậy. Vì tâm bình đẳng và phát tâm bỏ nhà đi xuất gia. Chứng được các hành như là ánh sáng, như là mộng huyễn và tiếng vang.

Cũng giống như xem trong nước thấy mặt trời, mặt trăng và ánh sao vậy. Tất cả đều bị tướng và bị các nhân duyên mà đến được bồ đề vậy.

Các bậc đại trí mong Phật chỉ giáo và mong đón nhận. Hoặc tự tư duy được hiểu biết các hành như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang, sanh ra tín tâm, lìa nhà xuất gia.

Hoặc có người chứng được Tu Đà Hoàn quả, Tư Đà Hàm quả, A Na Hàm quả và A La Hán quả.

Nếu có người đại thừa, hoặc chứng sơ nhẫn hoặc chứng đệ nhị đệ tam nhẫn. Tất cả đều hay chứng đến vô thượng bồ đề.

Giả sử sau khi Đức Phật diệt độ. Ở trong thế gian này mà lại thuyết pháp lưu hành như vậy.

Nếu có chúng sanh nào nghe được pháp này, sẽ chứng được tam thừa.

Cũng có thể chứng Thanh Văn, Bích Chi Phật Thừa cũng như tất cả chủng trí, vô thượng đại thừa.

Này Phạm Vương! Hãy nên biết rằng các pháp thứ lớp như thế. Lại cũng do Chư Phật mà thành tựu vậy. Lại có những người thấy những việc này liền sanh tâm xa rời hay biết rằng các hành đều vô thường, sự khổ luôn thay đổi, không có cái cuối cùng và pháp sẽ sinh ra. Tất cả như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang.

Này Phạm Thiên! Những điều này đều do Chư Phật tạo thành cảnh giới này. Có các chúng sanh do tu hành mà thành tựu vậy, được nghe tiếng nói của chánh pháp.

Nương nơi Như Lai mà suy nghĩ kính tin. Tất cả các hành vô thường và hoại diệt, giống như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang.

Cũng có chúng sanh từ đây nương vào Chư Phật mà thành kẻ phạm hạnh. Hoặc có người tại gia thọ trì giới cấm và từ nhân duyên đó giải thích rằng tất cả các hành đều vô thường hoại diệt.

Giống như ánh sáng, như mộng, như tiếng vang. Biết vậy sanh tín tâm, bỏ tục xuất gia. Các Đức Phật tuy chưa ra đời. Nhưng đã được Chư Phật thành tựu như vậy.

Vì lẽ Chư Phật đều có các căn lành, đến được bồ đề.

Này Phạm Thiên! Hãy biết như vậy. Tất cả đều là cảnh giới của Chư Phật và sự thành tựu của Chư Phật.

Này Phạm Thiên! Trong ba ngàn đại thiên Thế Giới này không có Phạm Vương cũng không có ngoại đạo lục sư, duy chỉ có Chư Phật.

Này Phạm Thiên! Ta từ xưa cho đến nay trong vô lượng trăm ngàn ức na do tha, A tăng kỳ kiếp đã tu Bồ Tát Hạnh, vô lượng A tăng kỳ kiếp Như Lai đã trồng nhiều loại căn lành và trì cấm giới, khổ tu phạm hạnh và đã tu vô lượng trăm nghìn ức na do tha khó làm những việc khổ hạnh như thế.

Giữ đất Phật này làm cho thanh tịnh. Nếu các chúng sanh tu các căn lành thì tùy theo chỗ mà được thanh tịnh và tùy theo thời mà được độ vậy.

Ta suốt canh thâu dùng tứ nhiếp để nhiếp hóa chúng sanh. Đó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Họ vì ta mà thệ nguyện vậy. Sanh vào đất Phật, nghe ta thuyết pháp mà hay tín giải, không nương về với Phạm Thích Hộ Thế các Thiên Vương vậy.

Này Phạm Thiên! Hãy biết như thế. Đây là đất Phật. Nơi đó không có Phạm Thích Hộ Thế, lại cũng chả có lục Sư ngoại đạo vậy. Lúc bấy giờ, chủ cõi Thế Giới Ta Bà là Đại Phạm Thiên Vương cùng với trăm ngàn phạm chúng luận tướng sầu bi nói lời như vậy.

Chư Phật Thế Tôn thông đạt khó có thắng diệu pháp môn, là chủ của Đại Phạm Thiên Vương và hàng ngàn đại thiên Thế Giới.

Vì Như Lai mà sanh tâm hy hữu. Chư Phật khó có và có vô lượng bất khả tư nghì các cảnh giới không cùng tận.

Đại Phạm Thiên Chủ tức thời quy y làm đệ tử Phật.

Nương nơi Thế Tôn thỉnh cầu chỉ dạy và nói lời rằng: Đức Bà Già Bà là thầy của con.

Tu Già Đà là thầy của con.

Kính mong Thế Tôn chỉ dạy cho con trụ ở chốn nào, hành pháp môn gì?

Phật bảo Phạm Thiên: Ba ngàn đại thiên Thế Giới này là đất của Phật. Ta nay phụ thuộc vào đây, hãy biết theo ta mà tạo sự chân chánh, có mắt nhìn đời đoạn tuyệt. Vô thượng Phật nhãn, pháp nhân và tăng nhân cũng nên đoạn tuyệt. Sau đó tự động sẽ biến thể.

Này Phạm Thiên! Vị lai sẽ có vị Trưởng Tử đồng chân Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát từ miệng Phật mà sanh, từ pháp hóa sanh. Vì tâm đại bi vô cùng mà làm lợi ích chúng sanh. Vì sự an lạc và sự an ổn của chúng sanh mà xuất hiện.

Ngài vì ba ngàn Thế Giới như pháp mà được bổ xứ, như ta nơi đây không sai khác, cũng hay tùy thuận như ta đang dạy, lại cũng thuận lợi đoạn tuyệt với pháp chân đạo của Phật Nhân, pháp Nhân và Tăng Nhân.

Vì sao vậy?

Này Phạm Thiên! Chi đến các pháp căn bản này không đoạn tùy theo thời mà Phật nhân, Pháp nhân, Tăng nhân được phép không đoạn tuyệt. Mắt của Thích Phạm Thiên, mắt người giải thoát cho đến mắt Niết Bàn được không đoạn tuyệt.

Này Phạm Thiên! Do vậy ta phụ thuộc vào Phật Độ và ba ngàn đại thiên Thế Giới vậy.

Này Phạm Thiên! Ta nay đã dạy, hãy nên tùy thuận. Vì đời người sau mà làm vậy. Lúc bấy giờ ba ngàn đại thiên Thế Giới có các Phạm Thiên và Đại Phạm Thiên, tất cả đều vì Thánh pháp này mà được chánh tín. Chủ ba ngàn đại thiên Thế Giới là Đại Phạm Thiên liền trong Thánh pháp này mà được chánh tín sâu xa.

***