Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Bi Không Trí Kim Cương đại Giáo Vương Nghi Quỹ

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI BI KHÔNG TRÍ KIM CƯƠNG

ĐẠI GIÁO VƯƠNG NGHI QUỸ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN HAI

NOA CÁT NI SÍ

THỊNH UY NGHI CHÂN NGÔN
 

Thí Nhất Thiết Địa Thượng Ẩm Thực Chân Ngôn là:

Án A Hồng phát trá, sa ha.

Đức Phật nói: Án A.

O Ā là Môn tạo làm tất cả pháp sinh ra.

Chủng tử của năm Đức Như Lai là:

1. Môn. Vu.

2. Áng Ā.

3. Nhĩ lăng Jrī.

4. Kham. Kha.

5. Hồng. Hū.

Không Trí Kim Cương Tâm Chân Ngôn là:

Án nỉ phộc tất tổ phộc nhạ la hồng hồng hồng phát tra, sa ha.

Đức Phật nói: Đầu của tất cả câu Chân Ngôn nên an chữ Án. O, tiếp theo đến chữ Hồng Phát Tra. Hū pha, cuối cùng dùng chữ Sa Ha. Svāhā.

A Súc Như Lai Chân Ngôn là:

Án át cát tạt trá đa ba dã thiết, sa ha.

Đức Phật nói chữ chủng tử của tất cả Du Nghĩ Ni Yoginī.

Át A nhất ế ốt ô lý lê lỗ lô Y ái ổ áo ám ác.

Nhị Tý Minh Vương Chân Ngôn là:

Án đát lại lộ ca sất ba các hồng hồng hồng phát tra, sa ha.

Tứ Tý Minh Vương Chân Ngôn là:

Án nhập phộc la nhập phộc la tỳ dụ hồng hồng hồng phát tra, sa ha.

Lục Tý Minh Vương Chân Ngôn là:

Án cát chi cát chi phộc nhạ la hồng hồng hồng phát tra, sa ha.

Gia Trì Chân Ngôn là:

Án A Hồng.

Tịnh Địa Chân Ngôn là:

Án lạc xoa, lạc xoa lạc xoa hồng hồng hồng phát tra, sa ha.

Cấm Chỉ Chân Ngôn là:

Án hồng sa hạ.

Phát Khiển Chân Ngôn là:

Án Kham sa hạ.

Phẫn Nộ Chân Ngôn là:

Án Hột lăng sa hạ.

Giáng Phục Chân Ngôn là:

Án hồng sa hạ.

Câu Triệu Chân Ngôn là:

Án Khô sa hạ.

Lại Giáng Phục Chân Ngôn là:

Án Môn sa hạ.

Tín Ái Chân Ngôn là:

Án cô lỗ lê hột lý sa hạ.

Đức Phật nói: Nếu khi Trời hạn hán, người muốn cầu mưa.

Trước tiên dựng lập Mạn Đà La, dùng đường viền của Hàn Lâm Śītavana: Khu rừng chứa thây người chết ở phương Bắc của Thành Vương Xá tại nước Ma Già Đà tính toán giới đạo.

Ở chính giữa Đàn dùng phấn năm màu trong Hàn Lâm Śītavana: Xương làm phấn trắng, than làm phấn đen, gạch nung làm phấn đỏ, Hùng Hoàng làm phấn vàng, lá Tưu La làm phấn viền dùng đá ở mỏ Đồng.

Thạch lục thay thế. Phấn vẽ Không Trí Kim Cương Đại Minh Vương. Hevajra mahā vidya rāja tám mặt, bốn chân, mười sáu cánh tay, mặt đều có ba con mắt, làm tướng phẫn nộ, đạp lên A Nan Đà Long Vương. Ananta nāga rāja.

Lại dùng bùn thơm làm tượng A Nan Đà Long Vương. Chữ chủng tử của vị Long Vương ấy với Phi. Vợ Long Vương đều dùng Phác. Phu Ác. A. Dùng năm Cam Lộ tắm gội, rải hoa màu đen. Tiếp theo dùng nước cốt của Long Hoa xoa bôi. Hoặc dùng nước cốt của Bạch Hao thay thế, lại đem tượng để trên đỉnh đầu của Si Trà Long Vương.

Vào ngày mười bốn của kỳ Hắc Nguyệt. K a pak a lấy sữa của con bò đen chứa đầy trong vật khí, khiến Đồng Nữ da đen hợp làm sợi dây màu xanh, ở góc Tây Bắc của Đàn làm một cái ao nhỏ, đem A Nan Đà Long Vương để trong cái ao ấy. Sau đó A Xà Lê Ācārye y theo Pháp dùng âm thanh nghiêm lệ không có gián đoạn tụng Thỉnh Vũ.

Cầu mưa Chân Ngôn này là:

Án khổ lỗ khổ lỗ khát nhiếp khát nhiếp mạt sa mạt sa khát trá khát trá khô trá dã khô trá dã A Nan đa súc bà cát la dã na nga đề bát đa duệ hứ hứ, lỗ lỗ cám tát bát đa bá đa la nga đam na nga na ca lý sa dã mạt lý sa dã nga lý nhạ dã phốc phốc phốc phốc phốc phốc phốc phốc hồng hồng hồng sa hạ?

O Guru ghuru, ghaha ghaha, masa masa, gha a gha a, gho āya gho āya, ananta k otakarāja nāgādhipataye, he he, ruka ruka, sapta pātāla gatā, nāgan ākar aya var āya garjāya, bho bho bho bho bho bho bho bho, hū hū, svāhā.

Tụng Chân Ngôn này. Nếu khi chẳng mưa, liền nên cầu đảo tụng Chú này tuôn xuống cơn mưa lớn. Lại nếu chẳng mưa sẽ khiến cho cái đầu của vị Long Vương ấy bị phá vỡ thành bảy phần như ngọn cây Lan Hương.

Nếu muốn ngưng mưa, lấy cái áo của Hàn Lâm để ở bên dưới Tòa, tụng Chân Ngôn này tức hay ngưng mưa. Chỉ Vũ.

Ngưng mưa Chân Ngôn là:

Án a lý dã thiết ma xá na, tất lý dạ dã hồng hồng hồng phát tra.

Lại nữa, Pháp thành tựu là giáng phục quân nơi khác, mau khiến cho phá hoại. Nên dùng Họa Thạch.

Đầu viên đá có vạch vẽ làm bột, bỏ vào Cam Lộ, dùng cỏ Đoạn Thiết hòa hợp làm thành viên tròn, gia trì tụng Chân Ngôn này là:

Án phộc nhạ la cát lý đa lý hứ phộc nhạ la dã hồng hồng hồng phát tra.

Nên trước tiên tụng Chân Ngôn này mười vạn biến, hoặc một trăm vạn biến. Được thành tựu xong, liền dùng viên thuốc lúc trước, vẽ đỉnh của cái bình. Bình khí đỉnh đều khiến cho giáp vòng không bị chặt đứt, liền được mau chóng phá hoại quân ở nơi khác.

Nếu muốn thành tựu Pháp Để La Cám. Trilaka, nên dùng hạt Mạt La Ma. Brahma bīja, hoa Mạn Độ Ca màu trắng với cỏ Đoạn Thiết, thuốc A Súc Tỳ. Ak obha.

Vào lúc Nhật Thực, hòa hợp làm hình cây búa, đạp dưới hai bàn chân, tụng Chân Ngôn này là:

Án phộc nhạ la cô trá la bá trá dã, bá trá dã trá trá hồng hồng hồng phát trá, sa hạ.

Tụng Chân Ngôn này một trăm vạn biến, liền được thành tựu tất cả Thánh Hiền. Bên trên chẳng dám trái vượt huống chi là phá hoại cõi Diệm Ma La.

Lại nữa, Pháp thành tựu. Nếu muốn làm các bệnh sốt rét, ở trên lá cây A Lý Ca. Araka, dùng tuốc Tức Đa Ca Độc Lạt.

Citraka, viết tên gọi của Thiết Đốt Lỗ Śatrū: Oan Gia ấy, vứt ném gạo vào trong hầm lửa.

Tụng Chân Ngôn này là:

Án hứ phộc nhạ la nhập phộc la, nhập phộc la thiết đốt lung bột lung hồng hồng hồng phát tra, sa hạ.

Tụng Chân Ngôn này một A Dữu Đa. Ayuta: Một triệu, liền được thành tựu.

Nếu muốn thành tựu Pháp mở Ma Niêm. Madya: Chỗ xoa dính, ở lỗ rốn của mình làm Quán Tưởng này, hoặc ở trên bụng quán tưởng thành tựu, sau đó mới thấy chỗ xoa dính. Ma niêm tự mở.

Nếu muốn làm pháp tin yêu. Vào ngày mồng tám của tháng, đến dưới cây Vô Ưu. Aśoka, mặc áo đỏ, ăn quả Vị Nại Na. Madana, dùng nước cốt của Can Ma Tức Ca Lạc.

Kāmācikā xoa bôi ở trên trán, tụng Chân Ngôn này là:

Án a mục kế nhĩ hột lý phộc thí bà tông đổ sa hạ.

Tụng Chân Ngôn này một A Dữu Đa. Ayuta: Một triệu không để cho gián đoạn, liền được thành tựu.

Nếu muốn ngăn chận. Chế chỉ Mặt Trời, Mặt Trăng nên dùng cơm của A Xà Lê làm dạng Mặt Trời, Mặt Trăng, để trong nước Kim Cương, tụng Chân Ngôn này là:

Án phộc nhạ la lý cát ma tả la ma tả la để sắt tra để sắt tra hứ phộc nhạ la dã hồng hồng hồng phát tra sa hạ.

Tụng Chân Ngôn này bảy trăm vạn biến, liền chận đứng được mặt trời, mặt trăng, ở ngày đêm ấy không có phân biệt.

Lại Pháp Kim Cương Dụ Sa Đa Thành Tựu. Sau ban ngày, khiến một Đồng Nữ có đủ tướng đem hương hoa cúng dường, niệm Chân Ngôn này một trăm lẻ tám biến, sau đó dùng dầu tắm gội, lấy nước cốt của cây Đa La Śāla xoa bôi trên ngón cái của Đồng Nữ với dùng Chân Ngôn này gia trì. Tức thời nên hỏi việc của ba đời thì Đồng Nữ ấy tùy theo chỗ hỏi mà nói.

Tụng Chân Ngôn:

Án na nga la, na nga la.

Lại Pháp thành tựu.

Vi lô dã, vi lô dã.

Khi tụng Chân Ngôn này thời loài voi liền bỏ chạy.

Mạn ma, mạn ma.

Khi tụng Chân Ngôn này thời loài cọp liền bỏ chạy.

Để lê dã, để lê dã.

Khi tụng Chân Ngôn này thời loài gấu liền bỏ chạy.

Y lê, nhĩ lê, phốc phốc.

Khi tụng Chân Ngôn này thời loài rắn liền bỏ chạy.

Đức Phật bảo Kim Cương Tạng Bồ Tát: Như ta xưa kia từng dùng pháp đấy điều phục, che giữ ắt khiến cho con voi say bỏ chạy. Ngao Lý Minh Phi.

Gaurīvidya rājñī, Thiết Phộc Lý Minh Phi. Savarī vidya rājñī, Kim Cương Noa Cát Ni. Vajra āki ī này tức là nghĩa vô ngã. Anātman. Câu triệu, phát khiển hàng địa hành, không hành đều tương ứng.

***