Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Bi Không Trí Kim Cương đại Giáo Vương Nghi Quỹ

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI BI KHÔNG TRÍ KIM CƯƠNG

ĐẠI GIÁO VƯƠNG NGHI QUỸ

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
 

PHẦN MƯỜI HAI

SÍ THỊNH NOA CÁT NI

SỞ THUYẾT THÀNH TỰU
 

Lại nữa Kim Cương Tạng nói: Thế Tôn! Đối với các biển pháp, làm thế nào để cầu thành tựu?

Lược nói sắc tướng của Bản Tôn như vậy?

Đức Phật nói: Vì đối với Vô Ngã Minh Phi, hoặc Cát Tường Hứ Lỗ Ca Śrīheruka một khoảng sát na biết sự an trụ của vị ấy cùng với Nghi Quỹ thanh tịnh rộng lớn, hoặc thời hoặc xứ, bắt đầu tu tập…cho nên lược nói.

Lại nữa, người trì Chân Ngôn một lòng thành tựu Tam Ma Hứ Đa. Đẳng Dẫn. Do đã trụ nghỉ, hoặc ban đêm phát tâm cần dũng, dùng tướng thắng tuệ, nên quán tưởng tượng Cát Tường Hứ Lỗ Ca, gột rửa bụi dơ, mặc áo mới sạch, dùng hương Chiên Đàn.

Candana xoa bôi tay chân, nhai nhấm Đậu Khấu Xỉ Mộc với quả có mùi thơm màu nhiệm, không ăn chẳng đúng thời… như Đức Thế Tôn tưởng cầu xuất ly, gần gũi bậc trí. Người thực hành quán tưởng, ở khoảng sát na chợt dấy lên tướng khác lạ đối với minh. Vidya đã trì, tâm khó điều phục. Khi ấy Hành Giả chẳng nên ngưng nghỉ, quyết định tinh cần, thúc dục cầu thành tựu.

Đức Phật bảo Kim Cương Tạng rằng: Ta nói tâm Thiền định hay hoại chất độc phiền não, người cầu thành tựu trù lượng thật khéo.

Ở một tháng, tâm ôm chứa Thánh Tượng, lìa các duyên bám níu, hoặc trong một ngày liên tục quán tưởng, tùy theo chỗ đã làm ấy được quả lợi to lớn, hết thảy luân chuyển hai lợi của ta người, chẳng phải là phương tiện khác mau có thể tu tập, nơi minh đã trì thường hiện ra trước mặt người cầu thành tựu.

Như vậy phiền não, sự mê say, lo buồn, bệnh khổ, ba độc. Tham, sân, si mạnh mẽ… nói khoảng sát na, như thật tương ứng thì chẳng bị rơi vào năm chỗ vô gián.

Avīci: Địa ngục A tỳ có năm nghĩa vô gián là thú quả vô gián, thọ khổ vô gián, thời vô gián, mệnh vô gián, thân hình vô gián.

Giả sử có thân xấu xí, hèn mọn, vằn vện, chẳng đầy đủ… người tạo nghiệp ác nghĩ cầu thành tựu thời nên tu mười điều tốt lành. Thập thiện, tôn trọng, yêu thích, hộ giữ kín căn môn. Người đấy quyết định lìa sân, mạn mà được thành tựu Tam Ma Hứ Đa. Đẳng dẫn giả sử thời phần này, đối với hạnh bí mật cho đến Pháp Ấn chưa được thành tựu thì tự nhiên được điều đấy. Bậc Trì Minh Trí. Vidya dhāra jñāna satva hoặc Du Nghĩ Ni Yoginī đi đến vì mình nói nhiếp thọ Ấn.

Tên là…, cầm chày Kim Cương lợi ích chúng sinh. Hoặc được Đồng Tử có đầy đủ tướng trang nghiêm rộng lớn. Dùng hương Tất La La. Silhaka hòa hợp với long não, dùng tâm bồ đề gia trì tán rải, cần phải một lòng quán tưởng Thánh Tượng ấy. Vị kia hoặc vì mình nói pháp của nhóm Thập Thiện, biết thật rõ ràng. Được sự thành tựu ấy không có nghi hoặc nữa. Hoặc Na Lý.

Nārī: người nữ thù thắng với quyến thuộc của mình, cũng nên quán tưởng. Hoặc Trời, hoặc Người, A Tu La, Khẩn Na La, Dạ Xoa Nữ… kẻ kia cũng tự lĩnh giải hạnh mà mình đã hành, nên sinh tin kính, đừng khởi sự suy nghĩ nghiêng lệch. Tà tư, sắc tướng sân nộ.

Lại nữa, Kim Cương Tạng nói: Thế Tôn đối với lý vô ngã đã nói đầy đủ. Lại thế nào là hai loại thành tựu của Ấn với nơi đã được Ấn.

Sở ấn xứ?

Đức Phật nói: Như Lai Đại Bi tuỳ theo chỗ ứng hiện đủ tướng Minh Phi, trụ Liên Hoa Tộc. Padma kulāya, buông tướng huyễn hoá mà hay chiếu soi hiểu biết. Chiếu giải hai loại sinh diệt của thắng tuệ, phương tiện. Hai bờ mé đấy chẳng phải sinh, chẳng phải diệt tức là tính chân thật. Lại diệt này, mỗi mỗi chỗ không có tính nên diệt không có tận hết, thứ tự sinh diệt của Du Già Yoga như vậy.

Lại người tu quán theo hý luận sinh, như chỗ làm trong mộng, như huyễn giác, thật không có hý luận. Trong đấy đã nói như Mạn Noa La hiện các sắc tướng, hoà hợp sinh ra Quán Đỉnh, Đại Ấn với Diệu Lạc. Như vậy biết rõ chỉ có uy lực lớn. Màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu xanh lục, màu đen, màu trắng, nhóm hạnh, phi hạnh.

Nhân tướng của hai loại thắng huệ, phương tiện… nói Kim Cương Tát Đoả có Tính Diệu Lạc ở Mạn Noa La, ngoài ra không có tác dụng.

Thời Kim Cương Tạng bạch Phật rằng: Thế Tôn! Đại Diệu Lạc đấy từ chỗ tương ứng sinh ra thứ tự.

Nếu chẳng phải là có Tính thì chỗ dùng như thế nào?

Đức Phật nói: Thích thay! Đại Sĩ dùng niềm tin trừ nghi.

Ta nói chỗ Diệu Lạc của Thân thế gian: Năng Quán. Chủ thể quán sát, sở quán. Đối tượng bị quán sát như hoa có mùi thơm. Tính của hoa nếu không có mùi thơm chẳng thể được. Diệu Lạc của thân tướng cũng lại như vậy. Đối với tính, không có tính. Vô tính như tri giác của Phật.

Si ám, không có biết với sự hèn yếu. Khiếp nhược khác đều hay phá hoại. Kim Cương. Vajra ấy dụ cho Hạnh Cực Diệu Lạc của Tam Ma Địa, chỉ có một thể tướng là Tạng thật của Phật.

Ta đã nói pháp, văn tự, công đức, tin thận, thế xuất thế gian là sự Điều Ngự. Nhóm ly hỷ, câu sinh hỷ tức là tự tính của ta như dùng đèn sáng phá các hắc ám. Ba mươi tướng, tám mươi chủng tử đều là chỗ an trụ của lạc luân. Tướng ấy nếu không có, là nghĩa chẳng phải có. Phi hữu. Đối với các Thánh Thiên chẳng nên vứt bỏ, thế nên hiểu tính sắc của phi hữu cũng không có tính, các tướng, chẳng phải tướng đều thắng diệu lạc.

Lại sắc tướng ta người của các thế gian đều cùng sinh. Câu sinh, tâm tướng thanh tịnh tức gọi là hoàn diệt.

Nếu đối với Bản Tôn tương ứng sinh ra: Uy nghi, sắc tướng với nơi an trụ. Như khoảng búng ngón tay mà chấp dính thì ví như chút ít thuốc độc hay hại nhiều mạng. Biết chất độc ấy xong, quay lại hay hoại chất độc.

Lại đối với phân biệt mà cực lực phân biệt, dùng cái có trong sạch. Thanh tịnh hữu phá cái có phiền não. Phiền não hữu thời như người bệnh Phong. Bệnh thần kinh ăn đậu Ma Sa phát bệnh Thần Kinh mạnh hơn, gọi là thuốc điên đảo. Điên đảo dược.

Đối với tướng, quyết định thường tìm kiếm rồi để phân biệt tất cả pháp tính. Dharmatā ví như có người bị chút ít nước rơi vào lỗ tai, vẫn còn dùng nước lấy ra.

Lại các chúng sinh bị lửa tham thiêu đốt chịu sự ràng buộc của các nghiệp ác. Ta dùng phương tiện vì họ nói lửa tham để khiến cho giải thoát. Như nếu có người bị lửa thiêu đốt nung nóng. Thiêu lạc, vẫn còn dùng lửa nung nướng. Tức dùng cái tham ấy khiến chặt đứt sự cột trói của tham mà chẳng thể biết là quán tưởng điên đảo. Người đấy gọi là ngoại đạo trong Phật Pháp.

Lại Liên Hoa Bộ tương ứng phân biệt năm đại chủng này. Tính tiếp chạm bền cứng mà sinh chấp dính, đối trị pháp si, đấy tức là Địa Giới Tỳ Lô Giá Na là chỗ dung nhận của tâm bồ đề. Nghiệp dụng của sắc thân, đấy tức là Thuỷ Giới A Súc Như Lai. Thuỷ. Nước Địa.

Đất cùng dao động, tiếp chạm sức nóng sinh ra hoả. Lửa. Đối trị lửa cháy mạnh của Tham. Tham sí, đấy tức là Hoả Giới Vô Lượng Thọ Như Lai. Suy nghĩ Bộ khác có tướng chuyển động, đối trị sự ganh ghét. Tật đố, đấy tức là Phong Giới Bất Không Thành Tựu Như Lai. Đối với Diệu Lạc này mà sinh yêu thích, tức tướng hư không đối trị việc nói hai lưỡi. Lưỡng thiệt, đấy tức là Không Giới Bảo Sinh Như Lai.

Năm đại chủng này ở khoảng sát na, tâm hay biết rõ, ngang bằng đồng với một vị. Thế nên ở trong thắng hỷ phân biệt năm loại lửa của nhóm tham, cùng với đại diệu lạc đồng một bản tính, có mười căng già sa số Như Lai chúng đồng là một bộ, ở trong một bộ đấy lại có trăm vạn vô số đại câu chi bộ. Trong thắng hỷ đấy được bộ. Kulāya như vậy.

***