Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh đại Bi đại ái
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI BI ĐẠI ÁI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẨM BỐN
PHẨM TRANG NGHIÊM PHÁP BẢN
Thấy tất cả Bồ Tát và đại chúng đều vì pháp nên tập hợp về đây, Phật định giảng pháp môn vô cái cho Bồ Tát. Khi ấy, Đức Thế Tôn phóng ra hào quang vô úy biện từ tướng lông trắng giữa chặng mày.
Hào quang này xoay quanh các Bồ Tát bảy vòng, sau đó xoay quanh Bồ Tát Tổng Giáo Vương trăm ngàn vòng rồi nhập vào đỉnh đầu Bồ Tát. Nương nơi thần lực Phật, ánh sáng đó lại xoay quanh các Bồ Tát trăm ngàn vòng, chiếu soi Tòa Sư Tử, thân Phật càng thêm uy nghiêm, Bồ Tát càng kính tín.
Thấy thần thông biến hóa của Phật, Bồ Tát Tổng Giáo Vương rời tòa, trịch vai áo bên phải, quỳ gối, chắp tay, hóa hiện lọng báu che trên Như Lai. Nhờ thần lực của Phật, phướn lưu ly hiện ra cao vòi vọi, được trang sức bằng các tạp báu, chân châu, lụa báu đan xen, xung quanh kết bằng vàng ròng. Lọng báu đó to lớn che cả tam thiên đại thiên cõi nước.
Bồ Tát dâng lọng báu, rải hoa thơm, trổi nhạc, cúng Phật, nói kệ khen Phật:
Hào quang soi rọi khắp mọi nơi
Tất cả Trời người đều thấy được
Tự tại biến hóa trong các pháp
Công đức của Phật không thể bàn.
Thế Tôn phóng quang chiếu tất cả
Khẩu nghiệp thanh tịnh đủ biện tài
Ánh sáng xoay quanh trăm ngàn vòng
Lại được nhập vào đỉnh đầu con.
Y như bản nguyện chí niệm xưa
Biện tài thanh tịnh, đủ tổng trì
Hiểu thấu tất cả không gì sánh
Nhờ ân Như Lai, Đấng Đại Hùng.
Thân Phật vòi vọi, tâm thanh tịnh
Con nay vui mừng thỏa ước nguyện
Trí Phật khôn lường không kể xiết
Gia hộ cho con đủ biện tài.
Thế Tôn uy nghiêm khó gặp được
Kẻ thiếu phước trí làm sao thấy
Nương thần lực Phật con thấy được
Ngưỡng mong Như Lai thương chúng sinh.
Hạnh nguyện của các Đại Bồ Tát
Vào trong thế gian cứu mọi loài
Hào quang của Phật rọi đến đâu
Con xin thành kính hỏi Thế Tôn.
Tất cả đại chúng đều về đây
Đều đang tu tập pháp đại thừa
Luôn luôn cầu mong pháp vi diệu
Vì thế con xin hỏi Như Lai.
Khéo léo giữ gìn mọi hành nghiệp
Lại luôn nghe học trí Như Lai
Nay đã đúng thời xin Phật giảng
Pháp tạng bí mật cho chúng sinh.
Thân Phật sáng rỡ không gì sánh
Trí tuệ Như Lai thật khôn lường
Trí tuệ vô ngại hiểu tất cả
Vì thế con xin hỏi Thế Tôn.
Thế Tôn tự tại trong trí tuệ
Là nhờ tu tập vô số kiếp
Ngưỡng mong Như Lai vì chúng con
Giảng thuyết hạnh đức của Như Lai.
Nói kệ xong, Bồ Tát Tổng Giáo Vương bạch Phật: Thế Tôn! Cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn, hạnh nguyện của Bồ Tát cũng không thể lường tính. Chúng con xin hết lòng nghe pháp Như Lai.
Xin Thế Tôn thương xót cho chúng con biết thế nào là trang nghiêm hạnh Bồ Tát?
Thế nào là Bồ Tát thanh tịnh bằng pháp sáng, xua tan man tối tăm?
Thế nào là Bồ Tát tu hạnh từ bi, không bỏ chúng sinh.
Thế nào là Bồ Tát tôn kính chánh pháp, không làm tổn hạ pháp?
Thật hy hữu thay. Thế Tôn! Xin phân biệt giảng nói về hạnh, pháp của Bồ Tát như việc hàng phục quân ma, trừ nghi, vào cảnh giới Phật, đi lại trong cõi Bồ Tát, hiểu tâm chí của chúng sinh, tâm hạnh thanh tịnh, đến Đạo Tràng, làm trang nghiêm Cõi Phật, tự tại không trở ngại trong các pháp theo lời Phật.
Phật khen: Hay thay! Hay thay! Chánh Sĩ! Vì muốn hiểu được hạnh nguyện, trí tuệ của Bồ Tát, Phật, nên đã thưa hỏi Như Lai như vậy.
Hãy lắng nghe! Suy nghĩ kỹ! Như Lai sẽ giảng nói. Bồ Tát trọn vẹn hạnh, đức sẽ tự tại trong các pháp. Bồ Tát Tổng Giáo Vương và đại chúng lắng nghe.
Phật nói: Bồ Tát trang nghiêm bốn pháp: Giữ gìn, không hủy giới cấm. Định ý không tán loạn. Trang nghiêm trí tuệ không chướng ngại. Nghe nhớ các pháp tổng trì.
Thiện Nam! Thế nào là trang nghiêm giới?
Trang nghiêm bằng một pháp. Đó là thương yêu chúng sinh, không tổn hại, thương xót mọi loài có mạng sống, tôn trọng mạng sống, làm an vui tất cả. Lại có hai pháp là lấp đường ác, mở đường lành.
Lại có ba pháp: Thân nghiệp thanh tịnh, không ô nhiễm. Khẩu nghiệp thanh tịnh, lời không thô bạo. Tâm thanh tịnh, không tán loạn.
Lại có bốn pháp: Đạt quả như nguyện, mong gì có nấy. Được như sở thích. Đạt đến cùng tột của ước muốn.
Lại có năm pháp: Cùng nhau tu tập giữ gìn giới cấm. Siêng năng trau giồi trí tuệ. Chuyên tâm giải thoát không kiêu mạn, luôn tu các độ. Gia hạnh chuyên tâm đạo vô thượng.
Lại có sáu pháp: Không hủy phạm, không hận thù. Không khiếm khuyết, không tổn hại. Không nhiễm ô, không lung lạc. Tu hạnh thanh tịnh không tỳ vết. Học rộng nghe nhiều không theo thế tục. Tu học không cần người tôn kính.
Lại có bảy pháp: Thanh tịnh giới. Thanh tịnh thí. Thanh tịnh nhẫn nhục. Thanh tịnh tinh tấn thanh tịnh thiền định. Thanh tịnh trí tuệ. Thanh tịnh phương tiện không phóng túng.
Lại có tám pháp: Biết đủ. Đạt cứu cánh. Đủ các pháp. Giới tánh tinh mật. Không bị tổn hại. Thành tựu chí nguyện. Không chấp trước khi gặp Phật. Thông tỏ tất cả. Học hỏi các pháp từ bậc Thiện tri thức.
Lại có chín pháp: Không kinh sợ khi nghe trí tuệ Phật. Không khiếp sợ trước mọi pháp. Hiểu trí rỗng lặng. Phân biệt phương tiện. Sống trong thanh tịnh không khổ não. Giữ gìn giới cấm như ong giữ mật hoa. Thanh tịnh tâm không theo vọng tình. Tâm nhu thuận không thô bạo. Đạt địa điều hòa.
Lại có mười pháp: Trang nghiêm thân bằng các tướng tốt. Trang nghiêm khẩu nghiệp, nói làm tương hợp. Thanh tịnh tâm, không bị tỳ vết. Trang nghiêm cõi nước như hạnh nguyện. Giáo hóa chúng sinh, thanh tịnh chí tánh. Không làm việc ác, trang nghiêm chốn thọ sinh.
Trang nghiêm hạnh Bồ Tát, học hạnh Như Lai. Trang nghiêm trí Phật nhưng không tự cao. Trang nghiêm Đạo Tràng đủ mọi đức. Trang nghiêm mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng, an định giới đức, không hủy phạm. Đó là mười pháp trang nghiêm giới.
Thiện Nam! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm định?
Có một pháp: Tu tâm từ, thương yêu chúng sinh.
Lại có hai pháp: Giữ gìn oai nghi. Tánh ngay thật không dua nịnh.
Lại có ba pháp: Không dua nịnh. Tâm tánh nhu thuận. Không dối trá.
Lại có bốn pháp: Điều hòa không chống trái. Không độc ác. Không tìm lỗi người. Không phạm giới cấm, không gặp tai nạn. Không theo kẻ ngu muội.
Lại có năm pháp: Là trừ năm cái: Tham dục. Sân hận. Tham ngủ nghỉ, ham vui đùa.
Lại có sáu pháp: Luôn niệm Phật. Niệm Pháp. Niệm Tăng. Niệm giới. Niệm bố thí. Niệm Thiên.
Lại có bảy pháp là không bỏ tâm đạo, tu bảy Phần giác: Niệm. Trạch pháp. Hỷ. Tinh tấn. Tín. Định. Hộ xả.
Lại có tám pháp là tám con đường chánh: Chánh kiến. Chánh mạng. Chánh ngữ. Chánh nghiệp. Chánh niệm. Chánh tư duy. Chánh định. Chánh tuệ.
Lại có chín pháp là Bồ Tát không bỏ tâm đạo, tu tầm tứ, không tham chấp, không bỏ chúng sinh: Trừ ái dục và các nghiệp ác, an vui theo đạm bạc, tu thiền thứ nhất.
Tịch tĩnh, suy xét, nội tâm chuyên nhất, không tầm tứ, tu thiền thứ hai. Hoan hỷ, lìa dục, an nhiên như Hiền Thánh, an ổn tu thiền thứ ba. Đoạn trừ khổ vui, rốt ráo thanh tịnh, không buồn vui, quán không khổ vui, tu thiền thứ tư.
Vượt vọng tưởng các sắc, đạt thanh tịnh thông suốt, không suy niệm, tu tập trí tệ hư không vô lượng. Vượt không tưởng, tu trí tuệ thức vô lượng. Vượt thức tưởng, không chấp thân, không dùng thức. Vượt tất cả, không dùng thức, tu hành từ hữu tưởng, vô tưởng. Vượt hữu tưởng vô tưởng, nhập tưởng, định tâm tư duy, dùng phương tiện quyền biến, không thủ chứng, giữ hạnh nguyện giáo hóa chúng sinh.
Lại có mười pháp: Không sân hận. Đủ hạnh tịch tĩnh. Không bỏ hạnh nguyện. Thích nơi thanh vắng. Không mất đức. Tâm điềm tĩnh. Thân tâm an nhiên không so sánh. An trụ các pháp. Tâm tự tại. Đạt tánh Thánh hiền. Đó là mười pháp trang nghiêm định.
Thiện Nam! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm tuệ?
Có một pháp: Thông hiểu các pháp.
Lại có hai pháp: Không nghi ngờ. Trừ tham ái.
Lại có ba: Trừ ngu si. Diệt vô minh. Trừ ấm, giới. Đoạn hết ngu tối.
Lại có bốn pháp: Hiểu đoạn các khổ. Thông các tập. Tỏ diệt. Tu đạo.
Lại có năm pháp: Thanh tịnh giới nhưng không chấp. Thanh tịnh định, siêng tu trí tuệ. Hiểu đạo pháp vào sinh tử. Thông hiểu ba đời, vượt chấp. Hành chánh pháp.
Lại có sáu pháp: Thanh tịnh thí Ba la mật: Biết mình như sóng nắng, người như giấc mộng, tâm như huyễn.
Thanh tịnh nhẫn Ba la mật: Không nói lời thô, giữ gìn lời nói, trừ oán kết luôn ngợi khen, dù bị chặt thân vẫn luôn hiện bày pháp thân thanh tịnh.
Thanh tịnh tinh tấn Ba la mật: Không chán ghét, vào cõi sinh tử, quán tất cả như mộng, kiên định tâm chí, tùy thuận tất cả, không chấp trước. Thanh tịnh thiền Ba la mật, biến vô minh thành trí tuệ, đưa tất cả về các pháp mà không tham chấp, siêng Tu Đạt thần thông. Thanh tịnh trí tuệ Ba la mật, thanh tịnh bốn pháp hóa độ chúng sinh, đủ Đà La Ni thọ trì chánh pháp, thanh tịnh nguyện trang nghiêm Cõi Phật.
Lại có bảy pháp: Tu bốn niệm xứ không sinh diệt. Tu bốn chánh cần, thân tâm thanh tịnh. Tu bốn Thần túc hiểu rõ các căn. Năm căn hàng phục quân ma, năm lực hiểu rõ các pháp. Bảy Giác phần thông đạt tất cả. Tám chánh đạo không đến đi.
Lại có tám pháp: Tuệ quán tịch tĩnh. Quán sát các pháp. Hiểu các pháp. Hiểu tánh giới bình đẳng. Biết các nhập vốn không dục vọng. Tỏ mười hai nhân duyên không ngã. Thành tín, không sân hận, thật quán các pháp.
Lại có chín pháp: Biết quá khứ vốn thanh tịnh. Biết vị lai tịch nhiên. Biết hiện tại cứu cánh tịnh. Biết rõ nghiệp báo. Hiểu nhân định. Khai hóa kẻ tà chấp. Biết Phật bình đẳng, đạt pháp thân. Bình đẳng quán các pháp, không tham dục. Biết Chư Phật bình đẳng tu tập vô vi.
Lại có mười pháp: Biết tất cả như mộng do mê hoặc. Hết thảy mộng ảo do vọng tưởng. Như ngựa hoang do phân biệt. Như thật do nhân duyên, như bóng, tùy thuận căn tánh. Như tiếng vọng do sự hòa hợp. Pháp giới không hoại. Không cố định vì không dừng trụ. Căn bản không dao động. Hiểu vô vi là tướng tự nhiên. Đó là mười pháp trang nghiêm tuệ.
Thiện Nam! Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm Đà La Ni?
Có một pháp: Ý thông đạt, không quên.
Lại có hai pháp: Đủ oai nghi, thâu tóm không trái.
Lại có ba: Hiểu oai nghi. Nói lời thanh nhã hiểu rõ nơi về, tùy thuận phương tiện.
Lại có bốn: Không chấp ngôn ngữ. Lời không thô bạo. Lời hòa nhã. Không nói lời mỉa mai.
Có có năm: Nghe tiếng bằng oai nghi. Hiểu thân bằng tuệ. Đạt diệu lý nơi Kinh. Biết người bằng pháp. Vào cõi tục bằng hạnh xuất thế.
Lại có sáu: Nói làm tương hợp. Thành thật. Không tự cao, không chấp trước. Không quanh có, giữ gìn. Tu tâm từ, tùy thuận thuyết pháp. Tùy thuận thế tục, giảng diễn các pháp.
Lại có bảy: Đủ trí tuệ đối đáp thích hợp. Tùy thuận căn cơ. Nhanh nhẹn. Không trở ngại. Không ngừng đọng. Không khiếm khuyết. Tùy hạnh nghi.
Lại có tám: Hiểu ngôn ngữ Cõi Trời. Biết âm thinh loài rồng. Hiểu ngôn ngữ loài quỷ thần. Phân biệt ngôn ngữ của Càn Thát Bà. Tỏ tiếng của A Tu La, đạt ngôn từ của Ca Lâu La. Thông ngôn ngữ của Khẩn Na La. Hiểu tiếng nói của Ma Hầu La và những chúng sinh khác.
Lại có chín: Không chấp vô vi. Tu tập không khiếp sợ. Dũng mãnh, giảng pháp. Đủ trí chân thật không hư dối. Đầy đủ mọi pháp. Tùy thuận chỉ dạy kẻ cao ngạo. Chỉ dạy người chân chất. Hiện sự hủy diệt với người chấp xứ. Thuyết giảng tùy sở học của từng nơi chốn.
Lại có mười: Tùy thuận căn tánh của chúng sinh không nói lời thô bạo. Nghe Pháp Phật, tu tập trí tuệ, không trau dồi trí thế gian. Đủ tài thuyết giảng dù là một câu cũng giảng không cùng tận. Giảng pháp không chấp. Khen ngợi Chư Phật.
Trừ bỏ việc ác, lời thô. Dạy Niết Bàn không thể nghĩ bàn. Nhẫn nhục với tất cả, không trở ngại bản trí. Hành theo lời Phật. Đủ biện tài phân biệt. Đó là mười pháp trang nghiêm Đà La Ni.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn muốn nhắc lại các ý nghĩa trên nên nói kệ:
Các Bậc Thánh Hiền
Trang nghiêm bốn pháp
Đó là phép tắc
Là thừa tối thượng.
Giữ giới định tâm
Trau giồi trí tuệ
Hành Đà La Ni
Phân biệt hiểu rõ.
Được mọi chúng sinh
Tôn kính mến yêu
Giữ thân, khẩu, ý
Luôn được thanh tịnh.
Trừ hết nghi ngờ
Không chấp văn tự
Người giữ gìn giới
Trang nghiêm như thế.
Lên Trời vào đời
Công đức lưu truyền
Tất cả chí nguyện
Đều được thành tựu.
Thường tu hạnh chánh
Là pháp trên hết
Giữ gìn tịnh giới
Trang nghiêm như vậy.
Sẽ được thành tựu
Định ý không loạn
Trí tuệ giải thoát
Trí tuệ của Phật.
Gần pháp vô vi
Quy nương hạnh ấy
Giữ giới thanh tịnh
Trang nghiêm như vậy.
Không thể phạm giới
Không để khuyết giới
Không đùa giới pháp
Tánh không buông thả.
Danh dự lợi dưỡng
Tất cả truyền tụng
Giữ giới thanh tịnh
Trang nghiêm như thế.
Giới đức thanh tịnh
Bố thí thuần khiết
Nhẫn nhục thanh tịnh
Tinh tấn cũng thế.
Thanh tịnh thiền định
Trí tuệ cũng vậy
Thanh tịnh phương tiện
Không sống buông lung.
An trụ kiên cố
Không bị dao động
Thông tỏ tất cả
Không ôm thù hận.
Tánh không buông, thắt
Cẩn thận giữ gìn
Giới đức thanh tịnh
Trang nghiêm như thế.
Giới luôn thuần tịnh
Không tâm thoái lui
Tâm không sinh khởi
Phiền não lo buồn.
Giữ ý và hạnh
Không hề thay đổi
Giới đức thanh tịnh
Trang nghiêm như thế.
Không lo sợ gì
Cũng không ương ngạnh
Tâm ý tịch tĩnh
Không hề chê cười.
Người phạm giới cấm
Khổ não ràng buộc
Giới đức thanh tịnh
Trang nghiêm như thế.
Tâm giữ giới cấm
Công đức khôn lường
Chí tánh hòa nhã
An ổn tâm ý.
Tự mình trang nghiêm
Các tướng tốt đẹp
Giới đức thanh tịnh
Trang nghiêm như thế.
Nói ra điều gì
Làm đúng như thế
Giữ gìn khẩu nghiệp
Trang nghiêm bảo hộ.
Tâm không tham đắm
Dục trần thế gian
Giới đức thanh tịnh
Trang nghiêm như thế.
Người này sẽ là
Trang nghiêm Cõi Phật
Giáo hóa chúng sinh
Đưa về đạo lớn.
Bậc minh triết nay
Thanh tịnh cõi mình
Vì nhân duyên này
Không phạm điều ác.
Trang nghiêm bằng cách
Tôn phụng Pháp Phật
Điều phục tất cả
Vào Đạo Tràng Phật.
Trang nghiêm mười lực
Bốn pháp vô úy
Trang nghiêm trí tuệ
Nhưng không kiêu mạn.
Thương yêu bảo vệ
Tất cả chúng sinh
Các bậc trí tuệ
Thấy đạo chân chánh.
Không tâm dua nịnh
Không chấp tiểu tiết
Không theo tham dục
Sân hận ngu si.
Chí tánh mạnh mẽ
Không chấp năm cái
Tu sáu niệm pháp
Không sống buông thả.
Hành bảy giác phần
Giữ đạo như thế
Quán sát tư duy
Thành tựu định ý.
Gần gũi cận kề
Sống trong tịch tĩnh
Tùy thời hành thiện
Không mất công đức.
An Lạc tính quán
Vào chốn loạn động
Tự tại hành đạo
Gieo mầm Hiền Thánh.
Không hề do dự
Không trái Kinh Pháp
Cũng chẳng nghi ngờ
Không bị chìm đắm.
Trừ diệt vô minh
Không sống ngu muội
Tâm tánh thành thật
Hiểu rõ trí Phật.
Giới đức thanh tịnh
Không chấp sở đắc
Trí tuệ tối thượng
Định ý thanh tịnh.
Tùy thuận hai việc
Giải thoát thanh tịnh
Không tâm kiêu mạn
Trí tuệ thanh tịnh.
Thấy rõ ba đời
Độ thoát mọi loài
Trừ diệt tham dục
Giới đức thanh tịnh.
Tuy sống thanh tịnh
Nhưng không tự cao
Người này trang nghiêm
Trí tuệ như thế.
Bố thí bằng trí
Trang nghiêm như thế
Thanh tịnh tất cả
Ba việc sau đây.
Thân mình, chúng sinh
Và việc tu đạo
Đều là mộng huyễn
Không hề chấp trước.
Dùng giới và trí
Trang nghiêm thân mình
Thanh tịnh điều phục
Cả ba việc ấy.
Thân nghiệp lời nói
Tâm niệm cũng vậy
Đều là bóng, ảo
Lại như tiếng vọng.
Đó là trí tuệ
Trang nghiêm thân mình
Nên được thanh tịnh
Ba việc sau đây.
Không ai khuất phục
Không bị dao động
Quán sát tất cả
Biết rõ pháp thân.
Trí tuệ tinh tấn
Trang nghiêm như vậy
Lại phải thanh tịnh
Ba việc sau đây.
Không hề lười biếng
Chí tánh kiên cường
Không mong đền đáp
Tùy thuận tất cả.
Nhờ có trí tuệ
Trang nghiêm định tâm
Lại có ba việc
Thực hành thanh tịnh.
Không còn tối tăm
Bậc minh triết này
Kiến lập năm thông.
Phương tiện trí tuệ
Trang nghiêm như thế
Lại phải thanh tịnh
Ba việc sau đây.
Thọ pháp tổng trì
Hiểu pháp bình đẳng
Chỉ pháp chúng sinh
Thanh tịnh Cõi Phật.
Bằng bốn niệm xứ
Tâm không thoái chuyển
Trong bốn chánh cần
Không làm hai việc.
Thân tâm điềm đạm
Tu bốn thần túc
Hiểu rõ mọi pháp
Tánh căn chúng sinh.
Vĩnh viễn không còn
Trần dục nghiệp ma
Tự tại trong pháp
Tùy thuận quyết đoán.
Không chấp đến đi
Không thấy qua lại
Thực hành oai nghi
Trang nghiêm trí tuệ.
Đạt đến nguồn căn
Thanh tịnh thiền định
Quán sát tất cả
Hạnh nguyện rộng lớn.
Hiểu rõ các ấm
Tu tập các pháp
Biết hết thảy giới
Tựa như hư không.
Vọng tình phân biệt
Rỗng lặng, không chấp
Pháp không ta người
Do nhân duyên sinh.
Hiểu rõ chân đế
Không ôm sân hận
Không có lo sợ
Nhân duyên tùy niệm.
Hiểu rõ ba đời
Không hề chướng ngại
Tỏ biết ba tụ
Mục đích hướng về.
Biết rõ Tam Bảo
Đều là một tướng
Những bậc trí tuệ
Trang nghiêm như thế.
Biết rõ huyễn hóa
Là tướng mê hoặc
Từ đó khởi hận
Tất cả như mộng.
Lại tựa cây chuối
Là tướng mê hoặc
Các pháp không bền
Đều như bóng ảo.
Do nhân duyên sinh
Như trăng dưới nước
Chẳng khác âm vang
Từ tiếng vọng lại.
Trong pháp giới ấy
Trí tuệ không hoại
Thấu tỏ không gốc
Trí không chỗ trụ.
Pháp động không động
Vốn là như vậy
Hữu vi vô vi
Đều không hề có.
Trí tuệ sâu xa
Thanh tịnh là đạo
Trang nghiêm như thế
Đối với Pháp Phật.
Không hề tham chấp
Cũng không hoặc loạn
Đời sau lại được
Thọ trì Kinh Pháp.
Lại thường giảng thuyết
Nghĩa lý vi diệu
Đi lại mọi nơi
Độ thoát tất cả.
Không nói lời ác
Cũng không thô bạo
Mọi lời nói ra
Đều vui lòng chúng.
Tất cả ngôn ngữ
Hợp với mọi loài
Tôn kính trí tuệ
Hiểu rõ mọi pháp.
Biết nghĩa lý Kinh
Thông đạt hết thảy
Tất cả là pháp
Không chấp mình người.
Giảng thuyết mọi pháp
Để vượt thế gian
Tự trang nghiêm mình
Bằng pháp tổng trì.
Mọi lời nói ra
Thành thật, ngay thẳng
Giảng giải mọi pháp
Hướng đến bình đẳng.
Lại làm mọi việc
Thuyết Kinh Pháp Phật
Hợp thời không hư
Không chấp việc làm.
Thực hành như thế
Biện tài thuyết giảng
Sớm đạt trí tuệ
Không hề trở ngại.
Không trụ vào đâu
Tùy thuận tất cả
Tự trang nghiêm mình
Chuỗi hoa thơm đẹp.
Biết rõ ngôn ngữ
Chư Thiên và Rồng
Quỷ Thần, Thát Bà
Cùng A Tu La.
Ca Lưu, Chân Đà
Ma Hầu La Già
Lại còn hiểu rõ
Ngôn ngữ chúng sinh.
Không thấy đi đến
Cũng không dừng trụ
Trong một pháp nào
Thấy biết tất cả.
Bậc dũng mãnh ấy
Tuyên thuyết chánh pháp
Với trí tuệ sáng
Thông đạt tỏ ngộ.
Với kẻ tự kiêu
Luôn loạn tâm ý
Nghe thấy pháp ấy
Tùy thuận hợp thời.
Tự đại cao ngạo
Nghe thấy pháp ấy
Tâm luôn kiêu mạn
Không tâm sân hận.
Phân biệt giảng thuyết
Giáo pháp ba thừa
Trừ hết tâm nghi
Không để ràng buộc.
Tự thân thấy nghe
Phật và chánh pháp
Không nương tựa người
Trí tuệ như thế.
Đối với văn tự
Hiểu là cùng tận
Phân biệt thấu rõ
Không bị trở ngại.
Khen ngợi Chư Phật
Công đức khôn lường
Thành tưu tổng trì
Trang nghiêm như thế.
Nhàm chán dục trần
Trí biết không ngại
Phương tiện khéo léo
Tùy thuận giáo hóa.
Hiểu rõ tất cả
Căn tánh chúng sinh
Và pháp của Phật
Biện tài phân biệt.
Thành tựu tổng trì
Trang nghiêm thân mình
Nhờ đạt như thế
Tiếng tốt vang xa.
Suốt trong một kiếp
Khen ngợi hạnh đức
Không thể hết được
Công đức khôn lường.
***