Kinh Đại thừa

Bộ Niết Bàn

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI LUÂN KIM CƯƠNG

 TỔNG TRÌ ĐÀ LA NI

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bồ Đề Lưu Chi, Đời Nguyên Ngụy
 

Như vậy tôi nghe!

Một thời Đức Phật ngự trong núi Kỳ Xà Quật. Gṛdhra kuṭa tại thành Vương Xá. Rāja gṛha cùng với chúng Đại Tỳ Kheo. Mahatā bhikṣusaṃgha gồm một ngàn hai trăm năm mươi người đến dự. Lại có Bồ Tát Ma Ha Tát gồm tám vạn sáu ngàn người là bậc Thượng Thủ.

Bấy giờ sau khi Đức Thế Tôn vào Bát Niết Bàn, lúc Phật Pháp muốn diệt thời Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tám Bộ Trời Rồng trước sau vây quanh cùng hội họp nói pháp.

Ngay lúc ấy có vị Chấp Kim Cương Thần hỏi Pháp Yếu ấy: Sau khi Đức Thế Tôn đã Bát Niết Bàn thời làm sao thọ trì pháp môn Tổng Trì?

Đức Phật bảo Chấp Kim Cương Thần.

Vajra dhāra devatā: Lành thay! Lành thay! Hàng Kim Cương các ông hay vì chúng sinh thời mạt kiếp, hỏi việc lợi ích này.

Hãy khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói việc lợi ích và sẽ nói Pháp Yếu.

Đức Phật bảo: Này Chấp Kim Cương Thần! Phàm người muốn thọ trì pháp môn tổng trì. Dhāraṇī với tụng Kinh Điển, ngồi Thiền, mọi loại pháp thiện.

1. Thanh tịnh.

2. Thường quyết định, chí thành.

3. Siêng năng chẳng lùi.

4. Báo đáp Từ Ân của Đức Phật.

5. Phát thệ rộng lớn, ngày đêm chuyên cần báo đáp ân của thầy, Tăng, cha mẹ.

6. Báo đáp ân của Bồ Tát.

7. Báo đáp ân của Kim Cương.

8. Báo đáp ân của ba mươi ba Cõi Trời.

9. Báo đáp ân của bốn vị đại thiên Vương.

10. Báo đáp ân của người Tiên trì Chú. Trì Chú Tiên Nhân.

Đức Phật bảo Chấp Kim Cương Thần rằng: Sau khi ta diệt độ, vào thời mạt pháp, chúng sinh phước mỏng, ba tai tranh nhau khởi, gặp quỷ thần độc, các hàng Thiên Ma. Trong nước Chấn Đán của cõi Nam Phù Đề, các quỷ thần ác với các tám vạn bốn ngàn Thiên Ma, mỗi một Ma có năm ngàn quyến thuộc ở cõi Nam Phù Đề giết hại chúng sinh vô lượng vô số.

Hàng Kim Cương các ông nay ở Hội này, nghe pháp bí mật. Hàng Kim Cương các ông nghe phương pháp trì Chú, mau chóng trước tiên tụng Đại Luân Kim Cương Đà La Ni Thần Chú.

Ông chẳng trì pháp môn này thì tất cả các Chú, giả sử khiến có hiệu nghiệm, cũng như có tội hành pháp trộm cắp dối trá. Ngụy đạo pháp, sau khi diệt độ bị rơi vào địa ngục, chịu tội khổ xong sẽ rơi vào nẻo súc sinh. Hành dối trá bị tội như vậy.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện với vô lượng Thiên Tiên, Kim Cương, Bồ Tát, vô lượng Dược Xoa, tất cả hàng quỷ thần… hãy khéo nghe! Ta sẽ vì các ngươi nói Quán Đỉnh Thần Chú, tụng hai mươi mốt biến hay thành tất cả Chú Pháp, mau được thành tựu việc thiện.

Chú ấy tức là tất cả Chư Phật mười phương trong đời quá khứ nhân vào Đà La Ni này thảy đều thành Phật Đạo, tất cả Bồ Tát đều đến Phật Đạo, tất cả Kim Cương đều được thân chẳng hoại, tất cả người Tiên được thành tựu.

Người tụng Chú này hay thành tất cả Ấn Pháp, tất cả Đàn Pháp, sẽ vào Mạn Đà La Đàn, chẳng dùng Sự Đàn.

Nếu làm Sự Đàn, gặp mọi loại tai nạn khởi như: Nạn của Trời, nạn của đất, nạn Vua chúa, nạn giặc cướp, nạn nước, nạn lửa, nạn của tất cả Dạ Xoa La Sát, nạn của Trời Rồng quỷ thần, nạn của các Ma tất cả người… Tụng Chú đó bảy ngày bảy đêm, trong sạch đốt hương, ở trước Tôn Tượng, tụng Chú này, sám hối ba nghiệp thì tất cả tội đều được tiêu diệt, tất cả quỷ thần thảy đều vui vẻ, hết thảy tất cả các bệnh trên thân đều được trừ khỏi.

Khi ấy Đức Phật bảo Chấp Kim Cương Thần, vô lượng Thiên Tiên, Tỳ Kheo A Nan: Các ông hãy khéo nghe! Ông trì Chú của Kim Cương thì ta vì ông ở trong Cõi Trời Kim Cương kết Đàn. Ông trì Chú của Bồ Tát thì ta vì ông ở trong Cõi Trời Bồ Tát kết Đàn.

Ông trì Chú của Chư Thiên thì ta vì ông ở trong Cõi Trời kết Đàn. Ông trì Chú của Trời Rồng thì ta vì ông ở trong cung Rồng kết Đàn. Ông trì Chú của hai mươi tám Bộ quỷ thần thì ta vì ông ở trong Cõi Trời quỷ thần kết Đàn. Ông trì Chú của Dạ Xoa La Sát thì ta vì ông ở trong Cõi Trời Dạ Xoa La Sát kết Đàn.

Đức Phật bảo Chấp Kim Cương Thần: Ngay lúc nói Chú thời núi, sông, tường đá, tất cả chấn động theo sáu cách. Tất cả núi Tu Di, Chư Thiên, quỷ thần thảy đều chẳng an. Tất cả Vua Rồng đều chạy trốn hết. Mây, mưa, ba mươi ba Cõi Trời đều chẳng an.

Lúc đó Đức Thế Tôn nói Thân Chú là:

Nẵng mô đá lê gia địa bà già nam đát tha yết đá nam Minh hồng tỳ la thời tỳ la thời, ma ha chước ca la tát đá tát đá sa la đế sa la đế đá la duệ, đá la duệ tỳ đà ma nễ tam bàn thiền nễ đát la mạt nễ, tất đà, yết lê, đát diệm sa ha.

NAMO STRIYA DHVIKĀNĀṂ TATHĀGATĀNĀṂ ĀṂ VIRAJI VIRAJI, MAHĀ CAKRA, SATA SATA, SARATE SARATE, TRAYI TRAYI, VIDHAMATI SAṂBHAṂJANI TRAMATI, SIDDHA, AGRI, TRAṂ SVĀHĀ.

Đại Luân Kim Cương Đà La Ni Tâm chân ngôn là:

Nẵng mô tất hý lý gia trụy vĩ già nam đát tha già đa nam Án vĩ la thời vĩ la thời, ma ha chước yết la phạt chiết lê phạt chiết la tát đá tát đá sa la đế sa la đế đá la duệ, đá la duệ tỳ đà mạt nễ tam bàn thệ nễ đa la mạt đễ tất đà, a yết lý để lý diệm sa ha. Tâm Chú.

NAMO STRIYA DHVIKĀNĀṂ TATHĀGATĀNĀṂ OṂ VIRAJI VIRAJI, MAHĀ CAKRA VAJRI VAJRA, SATA SATA, SARATE SARATE, TRAYI TRAYI, VIDHAMATI SAṂBHAṂJANI TRAMATI, SIDDHA, AGRI, TRAṂ SVĀHĀ.

Khi Đức Thế Tôn nói Chú này xong, liền bảo Chấp Kim Cương Thần với người Tiên trì Chú, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni… : Trước tiên nên mặc áo mới sạch, đốt hương cúng dường Lâu Chí Kim Cương, tụng Chú bảy ngày bảy đêm.

Chỉ có đốt hương với nước sạch, tụng Chú đủ mười vạn biến sẽ thành tựu tất cả Chú Pháp, về sau thông dụng tất cả Ấn. Phàm muốn trì tất cả Chú đều được thành tựu, nếu hay thường tụng Chú thì sau khi chết mau đến Phật Địa. Buddha bhūmi.

Bấy giờ hàng Kim Cương Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát nghe Đức Phật nói trì Tạng bí mật của Đại Luân Kim Cương Đà La Ni.

Chúng con, Kim Cương Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đều đem trăm ngàn hằng hà sa đẳng Kim Cương, mỗi một Kim Cương đều có trăm ngàn hằng hà sa quyến thuộc, mỗi một vị lại đều đem bốn ngàn vị Trời, đều đem trân bảo với núi Kim Cương hiến đức Phật. Nguyện chúng con, Kim Cương Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát đều đến Phật Địa. Quyến thuộc của chúng con ngày đêm vui vẻ, khiến cho con thọ trì.

Lại đem hương đốt, hương bột, hương xoa bôi, phan, hoa, lọng báu, trăm vị thức ăn uống… dâng lên Đức Thế Tôn, cúng dường Chư Phật ba đời ở mười phương trong quá khứ vị lai hiện tại.

Chúng con, Kim Cương Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát cũng vì chúng sinh thời Mạt Pháp, thọ trì Chú.

Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện với Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thọ trì Đại Luân Kim Cương Đà La Ni này, ở trước Tôn Tượng, tắm gội, mặc áo mới sạch, đốt hương, bày ba bàn thức ăn, vật cúng dường.

Nói: Chúng con từ đời vô thủy đến nay, trôi dạt trong sinh tử chẳng biết kiếp số. Hủy báng người Độc Giác, A La Hán. Chê bai Bồ Tát đại thừa. Chế diễu người hành chánh pháp. Bôi bẩn chốn Già Lam, bôi bẩn chùa tháp, bôi bẩn kinh thư, phá giới.

Hành giết chóc, trộm cắp, tà dâm… ba nghiệp bất thiện, làm thân Phật chảy máu, giết A La Hán. Thường hành điên đảo, giữ chính làm tà, mười ác, bất hiếu, giết hại cha mẹ. Tất cả mọi thứ tạo ác, chẳng biết số đếm. Nay ở trước Tôn Tượng, tỏ bày sám hối.

Bảy ngày bảy đêm, ba thời tụng một trăm lẻ tám biến Đà La Ni Thần Chú, dùng ba cái bình Táo Quán chứa đầy nước sạch, cắm cành Dương Liễu. Làm ba mâm thức ăn với bơ, mật, bánh, trà, nước nóng, mật ngẫu, mọi loại quả trái. Ở trước Tôn Tượng đào một lò Địa Hỏa tựa hoa sen hé nở, dùng đất đỏ xoa lau bốn mặt, chú vào mười cân than.

Dùng than của cây Thọ Vương, cây Luân Khương Tử… chẳng dùng than riêng. Lại dùng ba lượng Huân Lục Hương, hai lượng An Tất Hương, hai lượng Bạch Đàn Hương, hai lượng Thanh Mộc Hương, nửa thăng bơ, nửa thăng Mật.

Chặt phạt chém xén phân biệt năm loại hương giống như nhiều loại lớn. Ở trong một vật khí bằng đồng, dùng cái thìa bằng đồng hòa hợp, tụng Chú một trăm lẻ tám biến chú vào nhóm bơ, mật, hương này, chú một trăm lẻ tám biến.

Tượng ấy hướng mặt về phương Đông, Hành Giả hướng mặt về phương Tây, quỳ gối chắp tay, tác Cúng Dường Ấn như tướng hoa sen nở bày, hai ngón cái kèm song song mạnh mẽ hướng về phía sau, hai ngón út hợp mạnh mẽ hướng về phía trước giống như nâng cái bát. Đây gọi là Cúng Dường Ấn.

Đệ Tử chúng con…  Ở Châu… Huyện… Làng…  Thôn…  Tự xưng tên họ. Nếu là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thì xưng tên của Bản Tăng Ni, tên của Bản Tự.

Khải bạch tất cả Chư Phật ba đời ở mười phương, tất cả Hiền Thánh Minh Quan Nghiệp Đạo thời quá khứ.

Đệ Tử chúng con… năm… tháng… ngày mồng tám, canh năm bắt đầu sám hối, vạch tâm bày tỏ. Thỉnh tất cả Chư Phật ba đời ở mười phương, tất cả Chư Phật quá khứ, tất cả Chư Phật hiện tại.

Đương lai Di Lặc Tôn Phật với mười hai Bộ Kinh Tu Đa La Tạng, các Đại Bồ Tát, tất cả Hiền Thánh Tăng, tất cả Kim Cương, ba mươi ba Cõi Trời, bốn vị Thiên Vương, Đế Thích Thiên Vương, Tào Địa Phủ, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Tinh Tú Thiên, Thiện Ác Đồng Tử, Hộ Giới Thiện Thần… chứng biết đệ tử tỏ bày sám hối, hết thảy tội chướng thảy đều tiêu diệt.

Đệ Tử từ cõi đời vô thủy đến nay luân hồi sáu nẻo, trôi dạt sinh tử, chẳng biết thiện ác, chẳng biết Phật thời Phật biên, tạo tội, thường hành trộm cắp, ăn thịt uống rượu, nói hai lưỡi, miệng nói ác mọi loại đấu loạn, chẳng biết số đếm, sái sinh vô số, tà hạnh vô số, nói dối vô số. Ngày nay, lúc này tỏ bày sám hối. Một lần sám xong, về sau chẳng dám làm nữa.

Nguyện đệ tử chúng con… nay ở trước mười phương Chư Phật, nói đủ tội họa, phá trai, ăn ban đêm, thường hành tà hạnh. Sinh trong sáu nẻo, quỷ đói, súc sinh, mọi rợ vùng biên, hèn kém… thường hành tại nơi Bất Thiện. Ngày nay, lúc này tỏ bày sám hối. Một lần sám xong, về sau chẳng dám làm nữa.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện trong tháng, từ ngày mồng tám đến ngày 15, mỗi ngày cúng dường đều nên dùng thức ăn mới, trong bảy ngày ấy tụng Chú đủ mười vạn biến, sẽ có cảnh giới.

Nếu là người thượng căn, được ở trong mộng, thấy tất cả Chư Phật, Hiền Thánh xoa đỉnh đầu thọ ký, liền thọ nhận thuốc của Phật. Về sau liền chứng địa vị của Bồ Tát Kim Cương, theo Phật mà đi.

Nếu là cảnh giới trung căn. Trong bảy ngày dựa theo lúc trước cúng dường, mưa gió mù mịt, mộng thấy Kim Cương Hiền Thánh.

Nếu thấy chúng sinh hạ căn. Dựa theo lúc trước, bảy ngày cúng dường, chẳng thấy Hiền Thánh, trong bảy ngày chẳng thấy gió mưa, phan hoa chẳng động. Người này đời trước tạo làm nghiệp mười ác năm nghịch cùng với pháp không có duyên, ắt nên ra công sám hối gấp bội, một ngày một đêm sáu thời sám hối.

Chúng con liền nên nuốt hương niệm tụng:

Nam Mô Phật Đà Gia.

Nam Mô Đạt Ma Gia.

Nam Mô Tăng Già Gia.

Nam Mô mười hai bộ Kinh.

Nam Mô Kim Cương Tạng Bồ Tát.

Nam Mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam Mô Quán Thế Am Bồ Tát Ma Ha Tát.

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát, Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, Thập Nhất Diện Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát, Cứu Thoát Bồ Tát Ma Ha Tát, Định Tự Tại Vương Bồ Tát Ma Ha Tát, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, Dược Vương Bồ Tát Ma Ha Tát, Dược Thượng Bồ Tát Ma Ha Tát, Di Lặc Bồ Tát Ma Ha Tát.

Các nhóm Bồ Tát đó đều đem hằng hà sa quyến thuộc, trước sau vây quanh rồi bạch Phật rằng: Thế Tôn! Bồ Tát quyến thuộc của con đều đem hương bột, hương xoa bôi, phan, hoa, lọng báu cùng dường mười phương Chư Phật. Vì chúng sinh thời mạt pháp, tu học Đại Luân Đà La Ni, trợ giúp phước lành.

Kẻ trai lành, người nữ thiện, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Bà La Môn… tu học Kinh Điển với pháp môn Tu Đa La bí mật, người trì Chú với chúng sinh hạ căn mau chứng nhân quả.

Chúng con, các chúng Bồ Tát cũng khiến cho ấn khả, mười phương Chư Phật xoa đỉnh đầu thọ ký. Tụng Đà La Ni này là pháp môn căn bản của vô lượng Chư Phật đời quá khứ. Người tụng Chú này, hay trừ tất cả tội chướng, đều khiến tiêu diệt tội căn bản.

Nếu chúng sinh hạ căn, từ ngày mồng một của tháng Giêng, ở trước Tôn Tượng tụng Thần Chú này mười vạn biến, liền vào Đạo Tràng treo bốn cái Phan của bốn đại thiên Vương, bốn phương mỗi mỗi đều để 1hai cái phan của Kim Cương, tám cái Phan của Bồ Tát. Ngay hướng Nam đặt bày tượng Lô Xá Na. Lo Ca Na.

Ở phía trước, mọi loại cúng dường, dùng mâm đồng có ba mặt, trong mâm để mọi thứ thức ăn uống, dùng cái bát bằng đồng chứa đầy gạo tẻ, sữa, bơ, cơm. Sáu cái bát, một mâm để bát cơm, cái thìa bằng đồng, đũa của Phật, mọi loại cúng dường.

Ở trước Tượng, vẽ địa vị. Đàn vuông tròn rộng bốn Xích 4/3m, bên trên dùng bùn thơm xoa bôi, bên trên viết năm hình thể. Sắc đều như Bản Phương đều rộng năm Thốn 5/3dm, hình tròn trịa.

Viên sắc ở chính giữa hướng lên trên, năm cái mâm mới chứa đầy nước thơm, cắm cành Dương Liễu Mặt Nam của Đàn ấy, đào lò Địa Hỏa vuông tròn một Xích năm Thốn 5dm, ở bên trong một xích như hình hoa sen, dùng bùn đỏ xoa lau phần bên trong ấy.

Dựa theo lúc trước, năm loại hương với bơ mật… dùng vật bằng đồng, Sa La chứa đầy bơ, mật với hương cùng hòa chung một chỗ. Dùng một cái thìa đồng mới, chú vào hương này một trăm lẻ tám biến.

Đàn ấy an năm chén đèn, tơ lụa tạp nhạp đài một xích năm thốn. Mỗi tháng, một ngày một đêm, tụng Chú một trăm lẻ tám biến, dựa theo lúc trước cúng dường. Cứ bảy ngày, 14 ngày lại thay đổi thức ăn một lần.

Bảy ngày trở đi cũng không có gió mưa, quỷ thần chẳng hiện, Kim Cương Bồ Tát chẳng hiện tức người này có tội căn sâu nặng. Lấy năm loại hương lúc trước hòa hợp, đâm giã trộn chung với Mật làm thành viên, tụng Chú một ngàn không trăm lẻ tám biến, liền nuốt hương này.

Mỗi buổi sáng để bụng rỗng. Nhịn ăn nuốt hai mươi viên, dùng nước hoa trong giếng đưa xuống, mỗi khi muốn uống thuốc thì chú vào nước hai mươi mốt biến. Lại chú vào nước thơm, tắm gội thân thể, mặc áo mới sạch, tụng Chú cúng dường bốn mươi chín biến ắt chướng bên trong. Nội chướng của người ấy đều được tiêu diệt.

Đây là chúng sinh hạ căn, từ vô thủy đến nay dùng vật của Tam Bảo, vật của Phật Pháp Tăng, thường hành trộm cắp, dâm dục kẻ khác, đối với tất cả Hiền Thánh thọ tội vô số.

Năm… tháng… ngày…  đệ tử. Tên là… nay ở trước Tôn Tượng. Ở trước Kim Cương, Bồ Tát, Thánh Tăng tỏ bày sám hối. Chư Phật hiện trước mặt, tám Bộ Trời Rồng, tất cả quỷ thần cung cấp sai khiến. Các Đại Bồ Tát thường làm bạn bè.

Người trì Chú, mỗi ngày ăn Trai một lần: Gạo tẻ, sữa, lạc. Váng sữa, cơm… được thân lực mạnh cứng, nơi đến thông đạt, mọi người cung kính, lời nói ra đều được người tin nhận, ngày đêm tăng trưởng tất cả tài bảo.

Chịu khó hành Pháp Tạng bí mật của Đà La Ni này, thường sinh tin kính, ở một phòng trống trong sạch, niệm tụng ngày đêm, siêng năng đừng làm tạp hạnh, một lòng thọ trì cho dứt một thân này. Trọn đời ắt chẳng thọ nhận bào thai, sinh theo bốn loài. Noãn, thai, thấp, hóa thường cùng với các Đại Bồ Tát hội chung một chỗ.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Bà La Môn… thọ trì đọc tụng, vì người khác giải nói, sẽ được vô lượng phước.

Kinh này là ruộng phước của chúng sinh thời Mạt Pháp, được vào vô lượng trăm ngàn pháp môn của Đà La Ni cũng là tất cả Kinh Tạng.

Kẻ trai lành, người nữ thiện thọ trì đọc tụng. Ở trước Tôn Tượng, nằm nghỉ dưới bàn chân liền thấy cảnh giới, tất cả Kinh Tạng với tất cả Tạng Thần, Kim Cương, Bồ Tát, Thầy, Tăng, cha mẹ với tất cả Tôn Tượng. Người này từ khi hội với bên ngoài đến, thấy tướng này xong, ngậm miệng đừng hướng về người khác nói. Nếu hướng về người nói thì giới hạnh đều bị phá.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Bà La Môn… đọc tụng Kinh Điển, pháp môn tổng trì bí mật, ba loại phạm hạnh, miệng tụng Kinh Điển chẳng nói lời ác, tâm chẳng ôm ấp điều ác, thân không có nhiễm dính năm dục, chẳng được cùng với năm loại Nữ Chiên Đà La đồng trú ngụ tại một nơi.

Chẳng được cùng với Liệp Sư, năm ngàn đồ đảng của ngoại đạo chuyên chở vô số. Chẳng được nói năng với dâm nữ, quả phụ cũng chẳng được nghỉ đêm tại nhà bán rượu. Cũng chẳng được cùng với ngoại đạo hý luận tất cả Kinh Điển, đấu loạn tranh cạnh, phỉ báng chánh pháp với tất cả lợi dưỡng.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện cúng dường Tôn Tượng thì thức ăn ấy chẳng được tự ăn,. Vì giới hạnh đều bị phá, đem. Thức ăn ấy cho người nghèo sẽ được phước vô lượng. Cũng chẳng được ăn thức ăn còn dư của người tại gia, người xuất gia. Cũng chẳng được ăn thức ăn tại nhà dùng ngũ tân.

Năm thứ hôi nồng: Hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ, rượu, thịt.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện ăn thức ăn này thì sự thọ trì, đọc tụng giới hạnh đều bị phá, chẳng được gọi là thọ trì đọc tụng, thần lực đều mất, vướng tội vọng ngữ.

Khi nói Pháp này thời A Nan, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, bốn vị Thiên Vương, tám Bộ Trời Rồng quỷ thần, Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Người, Phi Nhân, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, năm trăm Bà La Môn với ba mươi ba Cõi Trời, Phạm Vương, Đế Thích, Chuyển Luân Thánh Vương nghe điều Đức Phật đã nói đều rất vui vẻ, đều chứng vô sinh pháp nhẫn, liền được Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, đều chứng Phật Địa.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói pháp vẽ tượng. Ở mười phương quá khứ vị lai hiện tại, tất cả các Đại Bồ Tát Ma Ha Tát ba đời gồm trăm ngàn vạn chúng đều đến tập hội.

Trăm ngàn Kim Cương Tạng Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn hai mươi tám Bộ Dược Xoa Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Hương Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Thiên Dược Xoa Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Sư Tử Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Thánh Tăng đều đến tập hội.

Trăm ngàn Trì Chú Tiên Nhân đều đến tập hội.

Trăm ngàn Đế Thích Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Chuyển Luân Thánh Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Khổng Tước Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Thiên Long Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Đại Phong Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Đại Lôi Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Tứ đại thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Đại Vũ Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Kim Xí Điểu Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Bạch Tượng Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Nhật Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Tinh Tú Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn A Tu La Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Thủy Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Hỏa Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Diệm Ma La Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Đại Địa Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Sơn Thần Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Hà Thần Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Hải Thần Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Ngũ Cốc Thiện Thần đều đến tập hội.

Trăm ngàn Xá Trạch Thần đều đến tập hội.

Trăm ngàn Thủ Môn Hộ Thần đều đến tập hội.

Trăm ngàn Viên Lâm Hoa Quả Thần đều đến tập hội.

Trăm ngàn Hý Thực Thiện Thần đều đến tập hội.

Trăm ngàn Chủ Thất Bảo Thiện Thần đều đến tập hội.

Trăm ngàn Ngũ Chủng Tịnh Tiền Tài Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Tu Đa La Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Bí Mật Tạng Thiên Thần Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Công Đức Thiên Nữ đều đến tập hội.

Trăm ngàn Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni đều đến tập hội.

Trăm ngàn Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đều đến tập hội.

Trăm ngàn Càn Thát Bà, Ca Lâu La, Khẩn Na La đều đến tập hội.

Trăm ngàn Ma Hầu La Già, Người, Phi Nhân… đều đến tập hội.

Trăm ngàn Thiên Tiên, Dược Thiên, Thần Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Thượng Diệu Tứ Thời Y Phục Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Hằng Hà Sa Số Cam Lộ Thiên Vương đều đến tập hội.

Trăm ngàn Thiên Ấn Đại Tướng hộ niệm tất cả chúng sinh đều đến tập hội. Trăm ngàn Chuyển Luân Thánh Vương đều đến tập hội.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp vẽ tượng thời ba ngàn đại thiên Thế Giới chấn động theo sáu cách. Lúc đó Trời tuôn mưa hoa Mạn Đà La, gió thơm khởi dậy bốn hướng, phướng phan tự lay động như trống Trời tự kêu.

Chư Phật ba đời ở mười phương phóng ánh sáng đại từ, bên dưới đến địa ngục A tỳ. Chúng sinh trong sáu nẻo thấy màu sắc của ánh sáng ấy thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, chứng vô thượng bồ đề.

Chúng Hội kết tập nguyện nghe pháp vẽ tượng của Chư Phật ba đời. Lấy mảnh lụa chia làm bốn lớp chồng lên nhau, đều dài tám thước 8/3mh, dùng nước cốt thơm xoa bôi lụa, chẳng được dùng nước keo nấu bằng da thú để vẽ tượng.

Người vẽ tượng ấy thọ tám trai giới, ăn thức ăn trong sạch, tắm gội, mặc áo mới sạch. Ở trong một tịnh phòng đốt hương, an một cái táo bình chứa đầy nước thơm để rưới rảy bốn phượng, liền làm vòng đai kết giới.

Trước tiên vẽ ao nước. Từ ao hướng xuống dưới hai tréo tay xoa, trong ao nước ấy vẽ hoa sen hé nở, có hoa chưa nở hướng xuống dưới.

Bốn bên ao nước an kiếm lan thạch trụ, đều dùng tơ lụa màu trang nghiêm cột trụ ấy, trên đỉnh tựa như hình hoa sen hé nở, trong đó an hạt châu Kim Cương. Kim Cương Châu. Mỗi một trụ ấy an hạt châu vàng. Kim Châu. Chính giữa làm một Giáng Kiều. Cây cầu cũng dùng tơ lụa báu trang nghiêm.

Trên một ngàn thềm bậc báu ấy, vẽ làm nhà cửa năm gian, trên ấy y như hình nhà lầu, hướng lên trên làm nhà có bảy cửa, bên trên an đuôi chim cú. Si vĩ.

Ngói ấy y như màu lưu ly xanh biếc, đầu mái hướng xuống dưới, trong mỗi một cái miệng phun ra hoa báu, bên trong treo chuông báu. Nhà lầu bảy gian ấy an cửa với cửa sổ, ngay giữa cửa trung tâm an một cái khóa vàng lớn. Các cửa cũng dùng tơ lục bảy báu, vẽ trang nghiêm nhà lầu ấy.

Ngay bên dưới, cửa trung tâm vẽ làm một tượng Lô Xá Na. Lo Ca Na dài ngắn y như hình tượng Phật. Hai bên trái phải là A Nan Ānanda, Ca Diếp. Kāśyapa với Quán Thế Âm Bồ Tát. Avalokiteśvara, Đại Thế Chí Bồ Tát. Mahā sthāma prāpta đều dùng bảy báu trang nghiêm.

Hai bên trái phải vẽ hai vị Kim Cương thuần mà vàng ròng, tay cầm chày báu, thế uy nghiêm giáng Ma với bên dưới bàn chân của Kim Cương vẽ làm ngọn núi vàng.

Hai bên trái phải ấy, hướng xuống dưới vẽ làm hai hình Kim Cương như màu trắng hồng, trên đỉnh đầu của Kim Cương ấy an luân cái. Cái lọng tròn như bánh xe. Tay ấy đều cầm chày, tô vẽ trang nghiêm. Bên dưới bàn chân đạp núi Kim Cương, đoan chính uy nghiêm, một vị mở miệng, một vị hé môi cười. Bên dưới bàn chân hai bên trái phải của Kim Cương làm hai con sư tử, ngóc đầu hướng lên trên, làm thế gầm rống.

Trước mặt tượng Lô Xá Na Phật ấy, trên lò hương vàng lớn an bảy cái lọng báu, khói hương đừng để cho ngưng dứt. Trước lò hương ấy vẽ một hoa sen hé nở, chính giữa hoa ấy hóa ra mâm hoa bảy báu. Trong mâm ấy vẽ làm bảy cái lá bằng vàng ròng. Ở trong lá ấy an vàng, bạc, lưu ly, san hô, trân châu, An Tất Hương, Huân Lục Hương, Ngưu Đầu, Chiên Đàn Hương cúng dường.

Trước cái mâm vẽ bốn cái phan của bốn vị Thiên Vương, 1hai cái phan của Kim Cương, mười hai cái phan của Bồ Tát, tám cái phan của Long Vương.

Làm một Hành Giả trên mặt đất, làm một Sinh Nhục Tử. Cái đệm, ở trên cái đệm vẽ làm chim, cỏ cát tường. Hành Giả quỳ gối, chắp tay, cúng dường.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Bà La Môn… đều tự vẽ Bản Tôn với diện mạo vui thích, hình trạng thiếu niên, ngồi Kiết Già.

Xong Pháp vẽ tượng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Pháp tác tất cả Ấn.

1. Pháp Thân Ấn: Đứng thẳng, bàn chân đứng như chữ Đinh, thẳng hai tay hướng lên trên, hợp lòng bàn tay cánh tay, mở hai ngón giữa, tám ngón cùng hợp lóng giữa, co hai cổ tay khiến hướng lên trên, phía trên đỉnh đầu.

Đây là Ấn Hộ Thân, tụng Chú một trăm lẻ tám biến.

2. Ấn giáng phục tất cả các quỷ thần Thiên Ma: Tám ngón tay cùng hợp nhau, mở hai ngón giữa, bên phải đè bên trái. Lúc tác Ấn thời tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Kim Cương, hàng Trời… thảy đều vui vẻ.

3. Ấn hay tiêu diệt tất cả tội chướng:

Mở tám ngón tay: Hai ngón vô danh, hai ngón út, hai ngón trỏ với hai ngón giữa. Bên phải đè bên trái. Quỳ gối tụng Chú một trăm lẻ tám biến hoặc một ngàn không trăm lẻ tám biến.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Bà La Môn có tất cả tội chướng trong quá khứ hiện tại vị lai thì thảy đều tiêu diệt không dư sót.

Lúc tác Ấn này thời thường được tất cả Chư Phật, Bồ Tát với tám Bộ Trời Rồng ủng hộ.

Tác Ấn này xong, Hành Giả dùng tâm tưởng đem Ấn này thì thân như thân Kim Cương cúng dường ba Đạo Ấn ấy.

Lúc làm thời ở trước Tôn Tượng, tắm rửa, mặc áo mới sạch, đốt hương xông ướp bàn tay. Trăm vị bánh trái, mọi loại cúng dường. Người tác Pháp ấy khải thỉnh mười phương quá khứ vị lai hiện tại, tất cả Chư Phật ba đời tám Bộ Trời Rồng, mười hai Bộ Kinh với Tu Đa La Tạng. Khải cáo Minh Quan Nghiệp Đạo chứng biết cho Đệ Tử.

Thảy tất cả quá khứ vị lai hiện tại, tất cả nghiệp tội đều được diệt, người ấy ở trong Đà La Ni Ấn này được tác Kim Cương Tam Muội.

4. Ấn đập nát tất cả các Thiên Ma với tất cả hàng quỷ thần ác, Cổ Đạo, Tinh Mỵ, thú ác: Đứng thẳng trên mặt đất, bàn chân đứng theo thế chữ Đinh , tay trái hướng xuống dưới, giận dữ dựng ngón tay.

Tưởng trong bàn tay ấy có khí trượng tuôn ra. Tay phải hướng lên trên, tưởng trong bàn tay ấy có cái chày giáng phục tất cả các Ma với tất cả Thiên Ma giáng phục hết. Người ấy tác Đại Sân Uy, răng cắn môi dưới, trợn mắt động lông mày.

Chử Ấn ấy, trong lòng bàn tay nắm giữ tám ngón, co lóng tay của ngón cái vịn lóng giữa của ngón trỏ. Ở trong tâm, tưởng ngay trên đỉnh đầu có bánh xe lửa, hiện khởi cáu giận, tưởng tất cả loài Thiên Ma, tất cả hàng Quỷ ác, Cổ Đạo, Mỵ, Quỷ, thú… một thời đều chết.

Hướng lên trên nhìn trời thì trong hư không, tất cả chim bay, Phi Thiên, Dạ Xoa, tất cả tạp loại… một thời đều chết.

5. Ấn chém đầu giáng phục tất cả Tiên Ma, quỷ thần: Kèm hai bàn chân đứng theo thế chữ Đinh, tay trái nắm cổ tay phải, chẳng cúi thấp quyền lúc trước. Gọi là Kim Cương Việt Phủ Ấn.

Lúc tác Ấn này thời tất cả Thiên Ma, quỷ thần thảy đều bị chém đầu, một thời đều chết.

6. Ấn Kim Cương Đao: Tay phải co ngón vô danh, ngón út ở trong lòng bàn tay, đem ngón cái đè trên móng của hai ngón, duỗi ngón trỏ ngón giữa, nâng cao bàn tay, gọi là Kim Cương Đao Ấn. Chỉ tưởng cây đao này hóa làm trăm ngàn vạn cây đao. Các quỷ thần, tất cả Tinh Mỵ một thời đều khởi.

7. Ấn Kim Cương Hỏa Luân: Hai ngón cái, hai ngón giữa kèm hợp nhau. Hai ngón trỏ với hai ngón vô danh cùng cài chéo nhau nhập vào trong lòng bàn tay, bên trái đè bên phải cùng móc nhau. Hợp hai cổ tay giận nữ từ trên hướng xuống dưới, giết giận giống như trăm ngàn bánh xe lửa.

Người tác Pháp ấy ở trước tượng Phật, ngồi Kiết Già, để hai cùi chỏ trên hai đầu gối.

Tâm tưởng bánh xe lửa ấy có 1hai cây căm, trong mỗi một cây căm lại có trăm ngàn Hỏa Binh, mỗi một Hỏa Binh hóa làm trăm ngàn Hỏa Binh, mỗi mỗi đều sai khiến vô lượng Hỏa Thần. Nếu có các Ma, quỷ thần với hằng sa quyến thuộc của tất cả tạp loại quỷ mỵ gây não loạn chúng sinh thì bánh xe lửa ấy đều hay giáng phục.

8. Ấn Kim Cương Tạng Vương giáng phục Ma: Ngồi Kiết Già, hai tay trái phải: Ba ngón gồm ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh duỗi trong hai lòng bàn tay, trái phải cùng đè nhau. Ngón cái phải đè ngón út trái, ngón út phải đè ngón cái trái. Gọi là Đại Giáng Thiên Ma Ấn.

Ấn ấy có hai tên gọi. Y như Ấn trước tay trái hướng xuống dưới, tay phải hướng lên trên cùng cài chéo nhau, dựa theo lúc trước cùng cài chéo nhau, gọi là Giáng Phục Nhất Thiết Thiên Ma Ấn.

Bấy giờ Đức Như Lai cùng với mười phương quá khứ vị lai hiện tại, tất cả Chư Phật ba đời, Bồ Tát, Kim Cương, các tám Bộ Trời Rồng, trăm ngàn vạn hằng hà sa Chư Phật ở Bồ Đề Đạo Tràng. Lúc nói Ấn này thời lại có ba mươi sáu loại Ma Vương, Thiên Ma, Hư Không Ma với mười hai Ma Vương thống lãnh tám vạn bốn ngàn binh Ma dùng làm quyến thuộc.

Lại có năm trăm Thiên Ma Ba Tuần đều thống lãnh hằng hà sa quyến thuộc với vô lượng binh quỷ thần ác ăn nuốt máu thịt của chúng sinh, tất cả tinh mỵ, cổ đạo thay phiên nhau đem Ma Sư kéo mây tuôn mưa, chẳng đúng thời tuôn sương, mưa đá gây tổn hại tất cả lúa mạ. Lại đem cất dấu vật khí rình rập, ở thiên hạ hành bệnh giết hại chúng sinh, luôn đem làm nghiệp, không có tâm từ bi.

Lại có tạp loại quỷ thần hút tinh khí con người, vô lượng vô biên hữu hình vô hình, có tay không có tay, có chân không có chân, chẳng nói mà đến, đến rồi lại nói cùng với tâm mắt giận cáu, đem các vật khí rình rập.

Lại có Thiên Ma đầu chim, Thiên Ma đầu chuột, Thiên Ma đầu heo, Thiên Ma đầu gà, Thiên Ma đầu thỏ, Thiên Ma đầu trâu.

Tất cả hàng Thiên Ma ấy buông bỏ tất cả khí trượng, cung nỏ, mâu, thuẫn, bánh xe, lọng, tất cả áo giáp… đưa đến trước mặt Đức Như Lai, xin mạng, nói lời như vậy: Ma Chúng chúng con xin quy y Đức Như Lai, đừng gây tổn hại cho con. Con ở trong tất cả Phật Pháp mà thường ủng hộ.

Nếu có người trì tụng Kinh Điển thì không có tất cả tai nạn, khiến cho pháp lành ấy ngày đêm tăng trưởng, tất cả tai nạn đều diệt không có sót.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo các Ma rằng: Các ngươi lại hay phát tâm bồ đề, tức được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện sau khi Như Lai diệt độ mà thọ trì Đà La Ni này thời người đó liền được chứng địa vị của Kim Cương Tạng Bồ Tát, thường được sự gia hộ của tất cả Chư Phật, tất cả Bồ Tát luôn làm bạn bè.

Nếu kẻ trai lành bị thiếu kém tư lương, sẽ thường khiến cho dư đủ. Người tụng Chú này có thân như Cam Lộ, sắc lực mạnh mẽ.

Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Bà La Môn… phá giới thì hết thảy tất cả nghiệp tội đều khiến trừ diệt.

Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện tụng Đà La Ni này, ngày đêm tăng trưởng, siêng năng suy nghĩ sẽ giúp cho tất cả chúng sinh xa lìa nỗi khổ bị gông cùm xiềng xích. Hồi thí cho Minh Quan Nghiệp Đạo, tất cả quỷ thần với A tỳ, đại địa ngục, chúng sinh chịu tội đều khiến cho giải thoát.

Nếu có chúng sinh, đời trước tạo tất cả nghiệp ác, nay được thân người chịu mọi loại tật bệnh, cổ đạo, tinh mỵ, điên khùng chạy lung tung với tất cả tai vạ xấu, chim kêu, lạnh, nóng, bệnh ác… lâu năm nhiều tháng chẳng khỏi. Nếu tụng Đà La Ni này một ngàn không trăm lẻ tám biến thì tất cả tai vạ, bệnh tật thảy đều trừ khỏi.

Nếu có chúng sinh phước mỏng, đoản mệnh… tụng Đà La Ni Kinh này bốn mươi chín biến liền được tăng tuổi thọ.

Nếu có người sinh khó, nên tụng Đà La Ni Kinh Điển này bốn mươi chín biến thì tai nạn tiêu diệt, bình phục như cũ.

Nếu bị bệnh sốt rét một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày cho đến bảy ngày, nửa tháng hoặc trải qua một tháng, hoặc lại một năm chẳng được khỏi bệnh. Lấy nước hoa dưới giếng. Tĩnh hoa thủy chứa đầy trong cái Táo Bình.

Ở trước Tôn Tượng, chú vào một ngàn không trăm lẻ tám biến rồi đem cho người bệnh ba lượng, khiến uống vào, dùng năm viên của hương lúc trước uống vào, liền được trừ khỏi.

Nếu là ngày bị sốt rét. Chú vào cây đao một trăm lẻ tám biến, vẽ mặt đất làm vuông tròn bốn thước 4/3m. Người bị bệnh vào tắm rửa, mặc áo mới sạch, ngồi ở trong cùng với hương nuốt vào, tụng Chú một ngàn không trăm lẻ tám biến liền được trừ khỏi.

Nếu bệnh nhiều năm chẳng khỏi, gầy ốm, nằm liệt. Tụng Chú, trước Tôn Tượng vẽ mặt đất, khải cáo Chư Phật nguyện nay cứu khổ, đốt hương, chí tâm đem trăm vị thước ăn uống, phụng hiến, cúng dường, liền được trừ khỏi.

Nếu bị tất cả tinh mỵ, võng lượng, hoạnh quỷ, cổ đạo, loài ăn tim của chúng sinh… trên dưới tuôn đổ máu, chẳng khỏi hoặc trải qua năm tháng. Liền ở trước Tôn Tượng, dựa theo lúc trước, đốt hương…

Đem bơ, mật, sữa, lạc, lúa gạo, hoa, mè cùng hòa chung rồi thiêu đốt trong lửa, tụng Chú bảy ngày bảy đêm. Dựa theo lúc trước cúng dường với nuốt thuốc hương, dùng nước hoa dưới giếng, liền được trừ khỏi.

Nếu người bị điên, ốm nặng. Dựa theo lúc trước cúng dường hương đốt, thức ăn uống, quả, bánh, mọi loại… bảy ngày, mười bốn này cúng dường liền được trừ khỏi.

Nếu là bệnh do Trời hành, nhiều tháng chẳng khỏi. Chú vào nước, tắm gội kèm uống vào bốn, năm hớp liền được trừ khỏi.

Nếu người bị tất cả nhọt, ghẻ lở với năm loại bệnh Gia Ma La. Chú vào nước, rưới rắm bốn mươi chín ngày với nuốt hương hai mươi viên, kèm ở trước Tôn Tượng tụng Kinh Điển này bốn mươi chín biến, liền được trừ khỏi.

Nếu bị ghẻ lở, hắc lào… chẳng kể khô ướt. Đập vụn một lượng Hùng Hoàng cùng hòa chung với bơ. Ở trước Tôn Tượng, tụng Chú một ngàn không trăm lẻ tám biến. Sau đó hành thí tất cả chúng sinh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Đà La Ni Kinh này giao phó cho hàng Kim Cương Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát với Tỳ Kheo A Nan, tám Bộ Trời Rồng trước sau vây quanh, cung kính lễ bái, tin nhận phụng hành.

 Chân Ngôn gia trì phấn trắng:

Án, yết na duệ, thấp bế đà dạ, toa ha.

OṂ AGNĀYE ŚVETĀYA SVĀHĀ.

 Chân Ngôn gia trì phấn đỏ:

Án, a yết na duệ, a la đà dạ, toa ha.

OṂ AGNĀYE LOHITĀYA.

Vì Avadātāya: Là nhóm màu đỏ SVĀHĀ.

 Chân Ngôn gia trì phấn vàng:

Án, a yết na duệ, tỵ đà dạ, toa ha.

OṂ AGNĀYE PĪTĀYA SVĀHĀ.

 Chân Ngôn gia trì phấn xanh:

Án, a yết na duệ, khả lợi đà duệ, toa ha.

OṂ AGNĀYE NĪLATĀYE SVĀHĀ.

 Chân Ngôn gia trì phấn đen:

Án, a yết na duệ, quân lợi sắt na dạ, toa ha.

OṂ AGNĀYE KṚṢṆĀYA SVĀHĀ.

Quy mệnh Đà La Ni.

Công Đức đã thấy tất cả Kinh Tạng với thấy tất cả Đạo Tràng đều tụng chân ngôn này bảy biến thì công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Nam mạc bố đá gia, câu la ni Nam mạc đạt ma gia đá dĩ nê Nam mạc tăng ha gia ma đế đạt lý mã tỳ Tát đát lý nẵng Nam Mô.

NAMAḤ BUDDHĀYA KUṆAMI.

NAMAḤ DHARMĀYA TAYĀNI.

NAMAḤ SAṂGHĀYA MAHATI.

TIRABHŪBI SATVADAṂ NAMO.

Đại Luân Ấn. Hai tay cài chéo các ngón vào trong lòng bàn tay, hai ngón cái cũng nhập vào trong lòng bàn tay. Đem Trung Ấn đội trên đỉnh đầu, đưa bàn chân trái an trên bàn chân phải, tụng Chú hai mươi mốt biến, hướng xuống dướng phóng rồi bung tán.

Đại Luân Kim Cương Khể Thủ Thỉnh Kệ

Nam Thiên Trúc Tam Tạng Kim Cương Trí dịch

Cúi lạy Châu Kế Đại Hoa Xỉ

Lực Sĩ Mật Tích, Đại Luân Vương

Ô Sô Sa Ma, Bất Động Tôn

Hoả Đầu, Kết Giới Quân Trà Lợi

Hoặc giận, hoặc kêu, tác phẫn nộ

Dời non chuyển biển trong chớp mắt

Giáng phục chúng La Sát, tâm độc

Nghe nói chân ngôn đều sợ hãi

Tồi diệt mười ác, độ hàm linh

Vào biển công đức của Như Lai

Ủng hộ đệ tử, người trì tụng

Phát tâm tán thỉnh, ứng âm thanh

Nguyện Đại Kim Cương chúng thanh tịnh

Chày Bạt Chiết La, tự tùy tâm

Nơi Đạo Tràng này, chốn lễ niệm

Vây khắp chung quanh để kết giới.

***