Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh đại Phương đẳng đảnh Vương
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI PHƯƠNG ĐẲNG ĐẢNH VƯƠNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Trúc Pháp Hộ, Đời Tây Tấn
PHẦN MỘT
Nghe như vậy!
Một thời, Đức Phật du hóa ở vườn cây Nại Thị thuộc thành Duy Da Ly, cùng với đại chúng gồm tám trăm vị Tỳ Kheo, một vạn vị Bồ Tát.
Tất cả các vị đều thấu đạt thần thông của Bậc Đại Thánh, đều chứng đắc Đà La Ni, biện tài vô ngại, thâu tóm trí tuệ của ba đời, cho đến trí Tam đạt: Không, vô tướng, vô nguyện mà không chấp vào quả vị chứng được, thực hành tâm từ rộng lớn thương khắp tất cả, không chấp ngã, ngã sở.
Do dốc đạt được giải thoát nên thông suốt tất cả các pháp trong ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai đều như huyễn hóa, mộng ảo, tiếng vang, ảnh trong gương, dợn nắng, như thân chuối, bọt nước, bong bóng nước, hiểu rõ ba cõi thật không hiện hữu, theo nhân duyên mà sinh ra, có lợi, không lợi, hoặc khen, hoặc chê, được khen hay không được khen, hoặc khổ, hoặc vui, đều vượt qua các pháp hiện có của thế gian.
Dùng phương tiện quyền xảo tuy qua lại nơi ba đường ác nhưng luôn vượt khỏi Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới, thông suốt nghĩa lý của đạo, cứu độ chúng sinh.
Chư Thiên đến cầu xin học hỏi, thọ trì pháp thâm diệu thì mở bày trí tuệ để được hội nhập nơi cửa đạo.
Bấy giờ, vào buổi sáng, Đức Thế Tôn mặc y mang bát vào thành Duy Da Ly khất thực, đến nhà Trưởng Giả Duy Ma Cật. Con trai của Trưởng Giả Duy Ma Cật tên là Thiện Tư, sáng sớm tắm rửa sạch sẽ, dùng hương thơm xoa vào thân, mặc y phục mới, tay cầm hoa sen cùng với vợ con thuởng thức ca nhạc, vui chơi trên lầu.
Do phước đức vun trồng từ đời trước đã cảm ứng nên từ xa thấy Đức Phật và đại chúng vào thành khất thực, hiện những điềm lành, Đồng Tử liền nói với vợ bằng kệ, thán tán công đức của Thế Tôn:
Âm thanh nghe hòa nhã
Đồng thời cùng vang lên
Kỹ nhạc từ chúng hội
Vong đến tận lầu đài.
Quyết chắc Đại Hùng đến
Đấng cứu đời sáng chói
Nay dùng bàn chân phải
Đặt yên lên cổng thành.
Vô số loài chim, thú
Phát ra tiếng từ bi
Từ xưa chưa từng nghe
Âm thanh vi diệu này.
Biết chắc Đại Hùng đến
Dẫn đường lợi chúng sinh
Nay đưa bàn chân phải
Đặt yên lên cổng thành.
Ngày nay con thấy Phật
Như thân báu anh lạc
Nhạc tự vang không tấu
Lòng vui thật nhiệm mầu.
Ba ngàn Thánh không nghi
Đức trang nghiêm thanh tịnh
Tất dùng bàn chân phải
Đặt yên lên cổng thành.
Ví như có bát lớn
Chứa hết nước ao hồ
Nghe âm thanh điều hòa
Biến khắp các cõi nước.
Biết rằng Đức Thế Tôn
Đại Thánh phóng hào quang
Ngài chỉ bày muôn loài
Chắc chắc sẽ vào thành.
Thần thông hóa chúng sinh
Như hoa quả tươi tốt
Ngần ấy thứ hương sắc
Tỏa khắp thơm ngào ngạt.
Quyết chắc Đức Thế Tôn
Thệ nguyện vốn đã lập
Nay dùng bàn chân phải
Đặt yên lên cổng thành.
Chiếu soi đến hư không
Khắp cùng cả Trời đất
Che khuất ánh Mặt Trời
Hoàn toàn không ánh sáng.
Nhất định Thế Tôn đến
Hiện oai lực sáng chói
Nay dùng bàn chân phải
Giẫm lên nơi cổng thành.
Giống như hàng Trời, người
Ở giữa cõi hư không
Những người theo sau Phật
Như Trời hầu Phạm Thiên.
Xót thương đời không nghi
Thế Tôn bậc dẫn đường
Nay dùng bàn chân phải
Giẫm lên nơi cổng thành.
Người trong thành xem biết
Phát tâm từ không hận
Như cha mẹ con cháu
Đều cùng nhau luận bàn
Đức sáng luôn chiếu soi
Phước uy tự trang nghiêm
Nay dùng bàn chân phải
Đặt yên lên cổng thành.
Thấy nam, nữ, lớn, nhỏ
Đều cầm nhiều thứ hoa
Chắp tay hướng về Phật
Vui mừng tung rải lên.
Đạo sư không do dự
Hoa đức trang nghiêm thân
Nay dùng bàn chân phải
Đặt yên lên cổng thành.
Hoa của Trời và người
Đầy khắp trong hư không
Rải hoa và đốt hương
Hương hoa thật vừa lòng.
Quyết chắc Đức Phật đến
Muốn vào Duy da ly
Nhằm giáo hóa đại chúng
Nên Thế Tôn đến đây.
Bấy giờ, vợ của Thiện Tư nghe xong bài kệ, vô cùng run sợ, đứng bên lan can suy nghĩ: Đây là những vị thần gì?
Là Trời, rồng, quỷ quái hay hàng Chân Đà La, Ma Hưu Lặc, Nhân phi nhân chăng?
Hỏi xong thì đứng yên một chỗ, không lay chuyển, chẳng dám dời đổi. Khi ấy, Đức Phật đi đến nhà Đồng Tử Thiện Tư, dừng lại phía trước cửa.
Đồng Tử Thiện Tư thấy Phật liền muốn xuống lầu ngay để đảnh lễ nghinh đón, tâm vô cùng vui mừng nên không thể tự kiềm chế bèn nhảy vội xuống lầu, vâng theo lời dạy của Đức Phật, trụ trên hư không, nói kệ tán thán:
Bậc Thánh tuệ an trụ
Vững mạnh trong loài người
Thương yêu đến chúng sinh
Xin nhận nước uống này.
Đức Thế Tôn vì Đồng Tử Thiện Tư nói kệ:
Do trụ chân bản tế
Không bị nhiễm thế tục
Bản tế không thật có
Đó là tướng bản tế.
Đồng Tử Thiện Tư dùng kệ hỏi Đức Phật:
Thế nào trụ bản tế?
Chân bản tế dẫn dắt
Vô minh nương bản tế
Sao gọi là hư không?
Đức Phật dùng kệ bảo Thiện Tư:
Tế đó, chân bản tế
Tế ấy tức Như Lai
Nếu xét trụ bản tế
Rõ ràng trụ như vậy.
Như tế, thật bản tế
Tế ấy tức Như Lai
Nếu rõ thật bản tế
Đồng Tử trụ cũng vậy.
Đồng Tử Thiện Tư dùng kệ bạch Phật:
Không tế là thế nào?
Sao gọi là tướng tế?
Dùng quyền phương tiện gì?
Mà gọi là bản tế.
Đức Thế Tôn xét thấy tâm của Đồng Tử Thiện Tư có thể thấu tỏ về đạo vô xứ liền dùng kệ bảo Đồng Tử:
Vô tế không thể đợi
Mới gọi thật bản tế
Tướng tế như hư không
Hư không cũng không tướng.
Thiện Tư dùng kệ hỏi Đức Phật:
Hay thay đạo chân chánh
Đạo vô thượng nhiệm mầu
Khiến tất cả chúng sinh
Trụ như Bậc Đạo Sư.
Đồng Tử Thiện Tư ở trước Đức Phật thưa: Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn Từ bi nhận đóa sen này. Đức Phật liền nhận hoa.
Đồng Tử Thiện Tư tự phát ra lời nói: Do công đức này nên đạt đến đạo Chánh Chân Vô Thượng, thành tựu Bậc Tối Chánh Giác, vì chúng sinh giảng thuyết Kinh Điển, khiến họ từ hàng phàm phu đạt được pháp đạo.
Bấy giờ, Hiền Giả Xá Lợi Phất ở trong chúng hội nói với Đồng Tử Thiện Tư: Tâm nguyện của Đồng Tử Thiện Tư hướng về điều gì?
Pháp thành tựu đạo quả Chánh Giác, tướng ấy là thế nào để vì chúng sinh mà giảng thuyết pháp đó?
Thiện Tư dùng kệ trả lời:
Chí Phật không chỗ đắc
Hàng Thanh Văn cũng vậy
Sẽ thành Chánh Giác ấy
Vì chúng sinh giảng nói.
Không có đối tượng thuyết
Cũng không nơi đạt đến
Đại trí nên hiểu rõ
Vốn thanh tịnh như vậy.
Chư Phật trong quá khứ
Đấng Vô Thượng cứu đời
Cũng không chấp các pháp
Dùng Niết Bàn độ sinh.
Không chấp vào pháp giới
Cũng không chúng sinh giới
Đó tức là bản tế
Thế gian không thấu rõ.
Giả gọi là pháp giới
Nương tướng có tên gọi
Cũng không có các tưởng
Càng không có nghiệp khác.
Bấy giờ, Hiền Giả Bân Nậu Văn Đà Ni Tử vì Đồng Tử Thiện Tư nên nói kệ:
Đồng Tử, ông vì sao
Mà muốn học pháp này?
Pháp sâu xa khó đạt
Chiếu sáng chỗ mê lầm.
Như ông sinh đã lâu
Trí tuệ thật dũng mãnh
Cùng Thanh Văn bàn luận
Đối đáp không sợ hãi.
Phân biệt khắp tất cả
An trú như vàng ròng
Pháp Vương cao vời vợi
Như trăng tròn trên không.
Đồng Tử Thiện Tư dùng kệ đáp:
Nhân giả hỏi chỗ sinh
Nơi sinh không chốn sinh
Các pháp không nơi khởi
Cái gì sinh ra pháp?
Pháp ấy không chỗ sinh
Tự nhiên không thật có
Vốn gọi là thanh tịnh
Không pháp, không chỗ đắc.
Các pháp vốn thanh tịnh
Chưa từng hiểu như vậy
Diệt vô minh, kiêu mạn
Nên Phật thuyết pháp này.
***