Kinh Đại thừa
Phật Thuyết Kinh đại Phương Quảng Mạn Thù Thất Lợi
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG
MẠN THÙ THẤT LỢI
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Bất Không, Đời Đường
PHẨM HAI
PHẨM QUÁN TỰ TẠI ĐA LA BỒ TÁT
KINH MẠN ĐỒ LA
Bấy giờ Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Đa La Bồ Tát rằng: Nếu người nữ vì muốn thành tựu nhất thiết chủng trí với muốn đầy đủ thắng nguyện của thế gian thì cần phải tu tập bí yếu như vậy.
Mạn Đồ La Maṇḍala: Đàn Trường ấy mỗi mỗi vị trí như ngày nay, Đức Thích Ca Như Lai ngự tại cung Trời Tịnh Cư cùng với các Bồ Tát tập hội.
Người tu hành ấy, trước tiên nên lựa chọn đất. Hoặc ở đỉnh núi, hoặc ở bờ sông, hoặc gần biển lớn, suối ao có hoa quả, nơi vắng lặng… lìa các nguy nan với hàng miệt lệ xa, oán tặc, trùng độc, Chiên Đà La, nơi tạp uế.
Rộng khoảng bốn khuỷu tay hoặc tám khuỷu tay cho đến mười sáu khuỷu tay. Đào sâu xuống đất một khuỷu tay, loại bỏ các xương, tóc, tro, than, gai góc, vật bất tịnh rồi lấy đất bên bờ sông với các đất sạch.
Thoạt tiên dùng ngũ tịnh rưới vảy xong, liền tụng Bản Tôn Đà La Ni một trăm lẻ tám biến gia trì đất ấy, dùng lấp đầy đất đó, trong sạch nên sửa chửa xây đắp cho thật bằng phẳng. Lấy phân bò vàng chưa rơi xuống đất, cũng tụng Đà La Ni mà gia trì xong, sau đó xoa tô đất.
Ở tháng thần thông tháng giêng, tháng năm, tháng chín với ngày có sao tốt trực Cát Tú hoặc ngày 15 tháng giêng, hoặc ngày 08, ngày 15 của tháng hai. Bắt đầu khởi thủ từ ban đêm, dùng Thanh Liên Hoa Ấn gia trì Đàn Địa, lấy chỉ lụa ngũ sắc hợp làm giới đạo ấy. Dùng phấn ngũ sắc vẽ làm. Hoặc phấn bằng bảy báu, tùy sức mà làm, hòa các bột hương, tụng Đà La Ni, rồi vẽ bốn phương ba viện.
Trước hết ở Trung Thai Đài chính giữa, vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên Tòa Sư Tử báu, tác tướng thuyết pháp.
Bên phải nên vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát ngồi trên hoa sen, chiêm ngưỡng chắp tay cầm hoa sen trắng, thân màu hồng trắng có Anh Lạc nghiêm sức, đầu đội mão báu, bên trái quấn sợi dây tơ Thần màu trắng.
Bên trái vẽ Kim Cương Tạng Bồ Tát, tay trái cầm chày Kim Cương, thân màu xanh lục nhạt.
Tiếp phía sau nên vẽ tám vị Đại Bồ Tát là: Di Lặc Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Hư Không Khố Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Tát Bà Đa Lôn Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát.
Ở bên dưới Kim Cương Tạng Bồ Tát lại vẽ Giáng Tam Thế Minh Vương Bồ Tát, làm hình phẫn nộ với vẽ Nguyệt Yểm Phẫn Nộ Bồ Tát, làm thế Noa Chưởng lòng bàn tay bóp nắn tồi phục các ma.
Gần Quán Tự Tại Bồ Tát vẽ Tỳ Câu Chi, Bạch Y Quán Thế Âm, Mã Đầu Minh Vương đều như bản sắc.
Gần Mã Đầu Bồ Tát vẽ Đại Cát Tường Quán Thế Âm, Đại Bạch Quán Thế Âm, Nguyệt Quán Thế Âm, Phong Tài Quán Thế Âm, Danh Xưng Quán Thế Âm.
Ở bên dưới Tòa Sư Tử của Đức Thích Ca Như Lai, vẽ ao hoa sen. Ở trong ao ấy có hoa sen báu màu nhiệm, làm ánh sáng đỏ, màu như pha lê hồng phóng ánh sáng lớn. Trong hoa sen ấy vẽ Đa La Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen xanh, ngửa tay phải an trên rốn như thế Tọa Thiền, mắt cũng như vậy, nghiêm sức Anh Lạc, khoác áo lụa mỏng có màu của ánh sáng mặt trời mới mọc, vui vẻ mà trụ.
Đàn ấy có bốn cửa, phướng, phan, hoa, lọng, hành lang, thềm bậc, lan can khó nâng, thương khư Śaṅkha: Vỏ ốc làm cái loa, âm nhạc của Chư Thiên khen vịnh chúng Thánh.
Mặt Đông của Đàn vẽ chúng A Ca Ni Tra Thiên, Thiểu Quang Thiên Tử, Vô Nhiệt Thiên Tử Cạnh Bắc, vẽ Diệu Kiến Thiên Tử, Thiện Hiện Thiên Tử Hai bên cửa ấy, vẽ Phạm Thiên, Phạm Phụ Thiên, Quang Âm Thiên, Đại Phạm Thiên bốn phương đều vẽ hai vị Trời đều đội mão máu, khoác áo màu đỏ, hoặc vàng, hoặc trắng, thân không có Anh Lạc, Tọa Thiền mà trụ đều đem tay phải an ở trên đỉnh đầu, làm tướng kính lễ.
Ngoại viện, bên cạnh cửa vẽ Ngật Lý Noa Bàn Trà Ma Vương có Anh Trang trang nghiêm, dung mạo thiếu niên.
Tiếp vẽ Hóa Lạc Thiên với nhóm Đâu Suất, Dạ Ma, Đế Thích Thiên Tử … ở gần cửa mà trụ.
Tiếp vẽ bốn vị Thiên Vương, Ca Lâu La Thiên, Y Xá Na Quỷ Thần Chủ với vẽ Tỳ Nữu Thiên cầm bánh xe luân mà trụ.
Tiếp vẽ Bán Chi Ca Đại Dược Xoa Tướng.
Tiếp vẽ Nhiễm Bà La Đại Dược Xoa với nhóm Mãn Hiền, Bảo Hiền Dược Xoa Vương với vẽ Ha Lợi Để Đại Dược Xoa Nữ, Nhật, Nguyệt, Tinh Tú, bốn chị em Thần Nữ, Cát Để Ca Đồng Tử và hai vị Long Vương Nan Đà, Bạt Nan Đà.
Chúng Thánh như vậy đều nên một lòng nghinh thỉnh, dùng tâm phát khiển, lấy hoa màu trắng để trong cái bát At Già, cúng dường tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, tất cả Chú Tiên, thế xuất thế gian đều nên quán, tận tâm cúng dường.
Dùng Bạch Đàn, Long Não, Uất Kim mà làm nước thơm, rưới vảy chúng Thánh.
Lại đem hương này nghiền thành bột rồi thiêu đốt, nên bạch lời này: Nguyện xin Chư Phật, Đại Bồ Tát, tất cả Thánh Giả cho con Tất Địa, khiến con mau ra khỏi bùn lầy sinh tử. Xưng ba lần xong, tùy sức bày biện để mà cúng dường, tâm thường cột buộc thỉnh tất cả Chú Thiên thuộc thế gian và xuất thế gian, nguyện gia trì cho ta, mỗi mỗi đều kết Bản Ấn ấy để mà tương ứng.
Dùng tám cái bình mới chứa đầy nước thơm kèm để tất cả hạt giống với bảy báu, vàng, bạc và các cỏ thuốc, cành cây A Ma La, Dương Liễu, Dạ Hợp. Lá cây tùng bách… dùng lụa màu chưa cắt, cột che trên bình. Bốn bình để bốn góc bên trong, bốn bình để bốn góc bên ngoài.
Lại để tám cái bình.
Thứ nhất, một bình cúng dường chúng A Ca Ni Tra Thiên thuộc Sắc Giới.
Thứ hai, một bình cúng dường chúng Tịnh Cư Thiên.
Thứ ba, một bình cúng dường Thiên Chúng thuộc Cõi Dục.
Thứ tư, một bình cúng dường các Dược Xoa, Thiên Nữ với Trì Minh Chú Tiên.
Thứ năm, một bình cúng dường các Phật Thế Tôn.
Thứ sáu, một bình cúng dường Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác.
Thứ bảy, đặt một bình ở trước mặt Đa La để mà cúng dường
Thứ tám, một bình cúng dường tất cả chúng sinh.
Như vậy tất cả tám cái bình đều nên mỗi mỗi như pháp bố trí.
Ở bốn mặt của Đàn đều thắp đèn dầu. Hương xoa bôi, hương đốt, vòng hoa, các món ăn, mỗi mỗi đều như Mạn Thù Thất Lợi Mạn Đồ La Pháp đều dùng Bản Tôn Đà La Ni gia trì vật cúng dường.
Ở góc Tây Nam của Đàn, cách hai mươi khuỷu tay nên làm Hộ Ma Quân Trà. Lò đó hình vuông có bốn góc, hoặc một khuỷu tay, hai khuỷu tay, sâu có thể là nửa khuỷu tay. Trong lò làm hình hoa sen. Lò đó xuyên làm như pháp chọn đất Trạch Địa Pháp.
Lấy ngói sạch, lửa tịnh, dùng cây có sữa nhũ mộc làm củi, lấy tất cả hoa cỏ với năm hạt giống hòa bơ, mật, lạc váng sữa.
Trước hết, dùng ba muỗng bơ thiêu đốt để cúng dường Hỏa Thiên. Tiếp Mật, Lạc đều dùng ba muỗng. Sau đó dùng năm hạt giống để trong lửa.
Đà La Ni là:
Án, a kỳ nễ, toa phộc ha.
OṂ AGNI SVĀHĀ.
Tụng Mật Ngôn này để gia trì.
Lại lấy Bạch Đàn, Uất Kim, Long Não Hương… cùng hòa với nước thơm, chứa đầy vật khí sạch mới bằng đồng đã tôi luyện, vàng, bạc, gỗ, ngói rồi để bên phải. Thỉnh Hỏa Thiên xong, lấy hương hoa, tụng Căn Bản Đà La Ni thiêu đốt cúng dường Hỏa Thiên. Tay phải lấy nước thơm, vòng theo bên phải rưới vảy lửa với dùng Bản Pháp.
Trước tiên, tự hộ thân.
Tiếp kết Thanh Liên Hoa Ấn, tưởng Đa La Bồ Tát, tụng 1008 biến, lấy các hoa màu trắng bỏ trong nước At Già, tưởng nhớ Bản Tôn rồi nâng lên cúng dường. Trước tiên, nghiêng tế ba lần.
Lại lấy Bạch Đàn, Uất Kim, Long Não hòa với bơ, mật, lạc kèm lấy cây có sữa làm củi, thẳng thắn không có lóng đốt dài mười hai ngón tay, chặt một ngàn đoạn, một lần tụng thì một lần ném vào trong lò thiêu đốt.
Đa La Bồ Tát liền hiện thân, bảo hành giả rằng: Ngươi cầu nguyện gì, ta sẽ ban cho tất cả. Giả sử người tu hành có nghiệp xưa chướng nặng, cũng hiệm cảnh giới, hoặc phóng ánh sáng, hoặc nghe sấm nổ, tiếng của chuông khánh. Hoặc ở trong không, không có mây mà tuôn mưa.
Hoặc hương hoa, gió nhiệm màu trong mát chạm thân hành giả. Gặp điềm này xong, sinh đại khánh duyệt. Các chúng Trời Người nhìn thấy người tu hành liền sinh tâm vui vẻ. Nên biết Đa La Bồ Tát, chẳng bao lâu sẽ mãn nguyện.
Nếu A Xà Lê làm điều này, phát khiển chúng Thánh, hiến Át Già xong, liền ở Đạo Trường như thường niệm tụng 1008 biến, nhiễu quanh ba vòng, tùy ý kinh hành. Mỗi ngày ba thời, hoặc bảy ngày, 14 ngày cho đến 21 ngày, cầu bản nguyện của mình, niệm tụng.
Niệm tụng xong, liền lấy nước cúng dường trong cái bình trước mặt Bổn Tôn Đa La Bồ Tát, kết Thanh Liên Hoa Ấn rưới lên đỉnh đầu người tu hành.
Chỗ Quán Đỉnh ấy cách Đàn tám khuỷu tay, vẽ một hoa sen rồi quán đỉnh, xong nhiễu quanh ba vòng, lại hiến Át Già, tụng các Tán Thán, kết Bản Tôn Ấn, bên trên để sen trắng rải ở trên Đàn để cúng dường, sau đó như thường. Lúc Phát Khiển, Trong Đàn, để phấn hoa trong nườc tuôn chảy trong sạch, chẳng nên đạp dẫm nơi có Mạn Đồ La. Lại dùng Cồ Ma Di phân bò xoa bôi.
Thức ăn uống cúng dường, nên cho Chúng Tăng với các người nghèo. Người từng vào Mạn Đồ La tu hành chẳng nên ăn thứ này, cũng chẳng được ăn Gia Tử La Bặc, cọng rễ hoa sen.
Cũng chẳng được dẫm đạp lên bóng ảnh của Suất Đỗ Ba Stūpa: Cái Tháp với bóng ảnh của cha mẹ. Bóng ảnh của Tỳ Kheo thanh tịnh, người tu hành cho đến bóng ảnh của bảy vị Phật, cây Bồ Đề cũng chẳng nên dẫm đạp lên.
***