Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Tập Những điều Bồ Tát Hư Không Tạng Hỏi Phật

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI TẬP NHỮNG ĐIỀU

BỒ TÁT HƯ KHÔNG TẠNG HỎI PHẬT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bất Không, Đời Đường
 

PHẦN HAI MƯƠI MỐT
 

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Đại Hư Không Tạng và các Đại Bồ Tát: Thiện nam! Ví như một Thế Giới ở phương Đông chia làm mười tam thiên đại thiên Thế Giới. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và trên, dưới cũng lại như vậy, mỗi mỗi phương ấy lại chia làm mười tam thiên đại thiên Thế Giới. Đem số lượng Thế Giới ấy nghiền nát thành hạt bụi, lại dùng một hạt bụi làm thành một Thế Giới.

Nếu có người ở phương Đông đi qua từng ấy Thế Giới vi trần đó, thả xuống một hạt bụi. Người đó lại đi về phương Đông, đi qua bao nhiêu Thế Giới vô số ấy, lại thả xuống mot hạt bụi nữa. Như vậy, lần lượt rải hết ngần ấy số hạt bụi.

Số Thế Giới Chư Phật ở phương Đông thật không có giới hạn, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và trên, dưới cũng lại như vậy.

Này thiện nam! Ý ông nghĩ sao?

Mười phương Thế Giới như vậy, số vi trần được thả xuống đó, ông nhận biết được chăng?

Bạch Thế Tôn! Không thể biết được, số Thế Giới vi trần ấy chỉ có Đức Như Lai dùng trí vô ngại mới biết rõ, còn người khác thì chẳng thể nhận biết được.

Phật bảo: Này thiện nam! Các Thế Giới ấy, hoặc chỗ thả vi trần, hoặc chỗ không thả xuống, hết thảy số Thế Giới đó đem xây tường vách bao quanh thành lớn, trên cao đến Trời Hữu Đảnh, dưới tận cùng đáy nước. Trong thành đó chứa đầy hạt cải, lấy một hạt cải làm thành một Thế Giới Phật.

Ý ông nghĩ sao?

Số hạt cải làm Thế Giới đó có nhiều chăng?

Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.

Phật bảo: Thiện nam! Số hạt cải và số Thế Giới như vậy, ta nhận biết đến gấp trăm, gấp ngàn lần số đó, cho đến có thể biết tới các loại: Khẩn Ca La, Di Vị La, A Súc Bà.

Nếu có thiện nam, thiện nữ nào cầu đạo quả bồ đề, đem bảy thứ báu có đầy khắp nơi số Thế Giới như trên, ban cho người trụ ở pháp công đức nhiều như số lượng hạt cải và cung kính cúng dường Chư Phật, Bồ Tát thì được công đức rất là nhiều.

Nếu lại có người nghe Kinh Điển hết sức vi diệu này, có thể phát khởi lòng tin thanh tịnh, nhẫn thanh tịnh thì chỗ phước đức đạt được hơn hẳn phần phước đức trước.

Hoặc lại có người thực hành việc bố thí rộng lớn đem số lượng châu báu nhiều như hạt cải đã nêu trên để bố thí. Nếu lại có người được nghe Kinh này, đối với chúng sinh khởi tâm vô ngại, trụ nơi nhẫn nhu hòa, như trong khoảnh khắc đi bảy bước, buộc niệm để suy nghĩ thì chỗ phước đức có được nhiều hơn hẳn phước đức nêu trước.

Hoặc có người tu tập các thứ phước đức, thành tựu ngôi vị của các Bậc Thiên Chủ, Đế Thích, Đại Phạm Thiên Vương, Chuyển Luân Thánh Vương, số đó nhiều như số lượng hạt cải đã nêu. Lại có người thọ trì Kinh này, có thể nhan biết về vô thường, khổ, không, vô ngã, Niết Bàn tịch tĩnh.

Biết được như vậy rồi, đối với chúng sinh liền khởi tâm đại bi, làm cho họ không bị mất hạt giống Tam Bảo, phát tâm cầu đạo quả vô thượng bồ đề thì phước đức người ấy nhiều hơn hẳn phước đức nêu trước.

Lúc đó, Bồ Tát Đại Hư Không Tạng thưa Phật: Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Như Lai gia hộ cho Kinh này, vào đời mạt pháp về sau, ở nơi Châu Thiệm Bộ, được lưu truyền rộng khắp.

Đức Phật bảo Bồ Tát Hư Không Tạng: Này thiện nam! Ta đã đem pháp này giao phó cho bốn Thiên Vương.

Vì sao?

Vì bốn Thiên Vương này luôn hộ trì Thế Giới, khiến cho pháp ấy được lưu truyền rộng rãi và trụ lâu ở đời.

Nay ta dùng thần chú vi diệu này để gia hộ cho bốn Đại Thiên Vương, Đức Thế Tôn liền nói chú:

Đát nhĩ giã, tha độ độ lê tha địa lê trì phạ, nhạ phả để trì phạ, nhạ lăng già, lê a mạc đắc nhĩ xả mê xả ma, bát để phiến để muc khê nể, ngã la ha bát ngật xoa đa a nổ na la ổ na la vĩ ngã ma tam ma, bát địa bá tha thâu địa bát tha nô ngã ma bát tha thâu địa bát la, chỉ nương, mục khê a lý dã, câu lê bộ đa lạt ngật sái, a nể nê sái giá minh nê sái giá đa ma sá giá đa đát bá sái giá một đà bá na đạt ma nô tán địa a lý dã, ngã nả nộ ngã na a na lý dã, nhĩ già đa nhĩ lô sắc tra, bát la, ta na minh y thấp phạ, la bá na lỗ ca thất chỉ, đát lị, ngật lý, đa a nô la ngật sa, diễn đô y mãn đạt ma tán địa nê bà nhạ đô nể lỗ ngật đề, niết nê thế bát la, để lộ ngật sái, đổ đạt ma đà lý nê.

Khi ấy, bốn Đại Thiên Vương nhờ sự gia hộ của thần chú nên đều run sợ, lông tóc dựng đứng, liền đến chỗ Phật, lễ nơi chân và thưa: Bạch Thế Tôn! Bốn Thiên Vương chúng con hết lòng giữ gìn và sẽ khiến cho Kinh này được trụ lâu trong thế gian. Ở đời vị lai, chúng con có thể hộ cho nơi chốn lưu truyền Kinh ấy, khiến các vị Thần, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lưu La dù không thích pháp này cũng không thể gây chướng ngại được.

Nếu có thiện thần nào ưa thích pháp này thì sẽ khiến cho tâm vị ấy được an tịnh. Nếu ở trong chung hội có vị Pháp Sư thuyết pháp, quên mất câu nghĩa thì giúp cho vị ấy nhớ lại, được trí tuệ hiểu biết, tăng trưởng biện tài.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tứ Thiên Vương: Lành thay, lành thay! Các ông đều là con của Như Lai, từ pháp hóa sinh, được Như Lai khích lệ để hộ trì chánh pháp, do nhân duyên của công đức ấy nên được làm Tứ Thiên Vương, vượt hẳn thế gian, mau chứng được đạo quả.

Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Đại Hư Không Tạng: Này thiện nam! Nay ta cũng nói thần chú gia trì cho Trời Đế Thích, khiến Kinh này được trụ lâu nơi đời.

Đức Thế Tôn liền nói thần chú: Đát nể giã, tha thâu đệ thâu bà mạc để thâu bà vĩ dữu, hệ na nại lê na lý nải đổ lý nai nạp mê xả mê ô ba xả mê quật phệ điểu khâu lê a tô mục khê Đà La Ni a la nải luân thâu lô, sái bà tinh để a bệ nê bệ na tán địa tam mê tam ma phạ để tam ma la thấp di, a thế hộ hô hề hề khâu lư khâu lê a na để yet la, minh nể phạ lạc ngật sái, ma tinh để ma ha phạ bà ta bát la, bệ a xa đổ xá yết lư nê phạ nạng mẫn nại la, na nại, xá đa na dạ na phạ la ma cự tra đạt la y xá phạ, lỗ mạc lỗ nại bà, phạ na nể phạ tư ta phạ.

Bấy giơ, Trời Đế Thích, nghe thần chú rồi thì vô cùng vui mừng, nhận thấy cung điện của mình tất cả đều chấn động, liền cùng với trăm ngàn quyến thuộc trước sau vây quanh đi đến chỗ Phật, đảnh lễ nơi chân Đức Thế Tôn.

Rồi thưa: Bạch Thế Tôn! Chư Thiên chúng con xin sẽ hết lòng hộ trì Kinh này, ở Châu Thiệm Bộ sẽ biểu dương khắp chốn, giúp cho mọi người đều được tu hành.

Nếu có vị Pháp Sư thọ trì Kinh này thì chúng con và đám quyến thuộc sẽ cùng nhau dốc sức ủng hộ, khiến dứt mọi lo nghĩ, được an vui, sinh niềm tin thanh tịnh. Những người thọ trì Kinh ấy đều được thành tựu, dùng pháp để trang nghiêm. Nếu có các vị Pháp Sư thuyết giảng Kinh nơi đô thành hoặc ở các thôn xóm, làng xã thì con sẽ sai bảo đám quyến thuộc cùng nhau đến hộ trì cho các vị ấy.

Nếu có người khinh chê, nhục mạ Pháp Sư đó thì con sẽ khiến họ phát tâm thanh tịnh. Hoặc có các thứ ma tạo chướng ngại thì con sẽ hiện bày uy lực khiến các ma phải tránh xa, không được tùy tiện quấy phá.

Khi đó, Đức Phật bảo Trời Đế Thích: Lành thay, lành thay! Kiều Thi Ca! Ông sẽ đạt được mọi thứ tự tại trong Cõi Trời, an trụ nơi pháp tự tại, ở chỗ của tất cả Phật hộ trì chánh pháp, đều có thể gầm lên tiếng gầm của sư tử.

Vì sao?

Vì Trời Đế Thích có khả năng thọ trì chánh pháp của Phật, đối với chánh pháp của Chư Phật nơi ba đời giảng nói đều có thể giữ gìn.

Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Đại Hư Không Tạng: Này thiện nam! Như Lai vì Đại Phạm Thiên Vương là chủ của Thế Giới Ta Bà này mà nói thần chú với đầy đủ oai đức và diệu nghĩa, nhờ thần chú ấy nên Đại Phạm Thiên Vương sẽ hộ trì Kinh này.

Đức Thế Tôn liền nói chú: Đát nhĩ giã, tha mỗi đát lý, thâu bà mỗi đát lý, đạt ma mẩu đát lý, mỗi đát lý dã nộ ta tứ đề tam ma mỗi đát lý, san địa mỗi đát lý, a nỗ ngạ ma mỗi đát lý, a nộ la ngật xoa mỗi đát lý a nỗ độ la mỗi đát lý tát đinh na mỗi đát lý, đạt ma mỗi đát lý, a nỗ tát la tha mỗi đát lý a vĩ tát la để ta la mỗi đát lý ốt lư ca na mỗi đát lý vĩ lư ca na mỗi đát lý mỗi dạ nỗ ngạ ma mỗi đát lý, một đà địa sắc trạch na mỗi đát lý a nỗ la ngật xoa mỗi đát lý ma bát la để lạc ngật xoa nọa mỗi đát lý mẫu ngật xoa mỗi đát lý a na nộ lý lư đà vĩ lư đà mỗi đát lý a đa mâu mỗi đát lý, một la hạ ma bá tha mỗi đát lý dạ la lăng ca la mỗi đát lý đát tả nỗ san địa ca lư na mỗi đát lý đát tả nỗ san địa mộ nhĩ đa mỗi đát lý đát tả nỗ san địa dữu bế ngật xoa, mỗi đát lý một la hạ ma bát địa nỗ ngạ na na mỗi đát lý, chất đô nhĩ vĩ lý dã mỗi đát lý a nộ ta la nọa mỗi đát lý nhĩ ta để la nọa mỗi đát lý tát phạ đát la nọa ngạ ma na mỗi đát lý a tát xa mạt la hàm môn ốt tất lợi dạ na tố đại vĩ mật dụ để sắc tra ta phạ ta phạ tam ma đề nhĩ sắc yết la ma ma ha vĩ mA Nan vĩ dã phạ lỗ ca da nhiễm mạc nhĩ vĩ băng câu lư khấp phạ đạt ma lạc ngật xoa ma để yết la di một đà địa sắc tra nam.

Lúc này, Đại Phạm Thiên Vương là chủ của Thế Giới Ta Bà, ở nơi cảnh giới của mình, nhờ thần chú gia trì cùng tâm từ bi và diệu lực từ oai thần của Phật, nên dùng thiên nhĩ nghe chú rồi, liền cùng với sáu mươi sáu vạn Phạm chúng đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ nơi chân Phật, lui ra ngồi sang một bên, thưa Phật: 

Bạch Thế Tôn! Chúng con nhờ diệu lực gia trì từ nơi tâm đại từ, đại bi của Phật, khiến chúng con được tham dự vào việc hộ trì Kinh này. Nếu ở đời vị lai có các vị Pháp Sư đối với Kinh Điển bí mật rất sâu xa này hết lòng thọ giữ, đọc tụng cho đến biên chép để phụng trì cúng dường.

Hoặc vị Pháp Sư ấy ở nơi thanh vắng, ở chỗ ngả tư đường nơi các thôn ấp, làng xóm, đô thành… thuyết giảng Kinh này thì chúng con sẽ cùng nhau ủng hộ, dùng uy lực của mình đề thâu giữ khiến chư vị luôn được tinh tấn, niệm, tuệ, biện tài đều tăng trưởng, với người không tin sẽ làm cho họ có niềm tin, người có lòng tin thanh tịnh thì khiến an trụ vào chánh hạnh.

Bạch Thế Tôn! Nay chúng con đối với mắt của chánh pháp mà Đức Như Lai đã thuyết giảng, đều cùng nhau dốc sức phụng trì, khiến được lưu hành khắp nơi.

Khi đó, Thế Tôn bảo Đại Phạm Thiên Vương: Lành thay, lành thay! Này Phạm Vương! Nay Như Lai tùy hỷ về việc các ông đã hộ trì chánh pháp.

Phạm Vương! Ông chẳng bao lâu nữa sẽ an tọa nơi Đạo Tràng, chuyển pháp luân như ta ngày nay không khác. Hiện tại, ông ủng hộ Kinh này, còn các vị Phạm Thiên khác, ở đời vị lai sẽ hộ trì chánh pháp, cũng đều như vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ Tát Từ Thị: Nay Như Lai sẽ đem pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề ít có này, đã tích tập từ vô lượng, vô số kiếp phó chúc cho ông, cho đến nhằm để bảo ân Phật thì phải thọ trì, đọc tụng diễn nói cho người khác.

Cũng làm viên mãn chỗ nguyện cầu của mình, giúp cho chúng sinh tăng trưởng căn lành, tạo phương tiện cho các Bồ Tát giữ gìn ánh sáng của pháp, thu phục các thứ ma, ngoại đạo, lại hộ trì chánh pháp khiến cho hạt giống Tam Bảo không bị đoạn mất.

Bồ Tát Từ Thị bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ở đời hiện tại và sau khi Như Lai nhập Niết Bàn, con xin sẽ giữ gìn tạng pháp này.

Vì sao?

Vì con cũng đã từng ở quá khứ hộ trì chánh pháp ấy.

Bạch Thế Tôn! Con tuy ở Cõi Trời Đâu Suất nhưng đối với các Kinh này luôn tăng thêm sự giữ gìn, khiến được trụ lâu ở đời.

Bạch Thế Tôn! Vào đời vị lai, nếu có người nào đối với Kinh này, nghe rồi thọ trì, biên chép, đọc tụng, như pháp tu tập, vì người khác mà giảng nói thì nên biết đó đều là do oai lực hộ trì của con.

Thưa Thế Tôn! Lúc ấy, nếu có các ma và bè nhóm của chúng, cũng không thể làm chướng ngại đến sự thành tựu căn lành của con, cho dù chỉ một mảy may.

Nếu ở trong tam thiên đại thiên Thế Giới, tất cả chúng sinh thảy đều là ma, hoặc là quyến thuộc của chúng thì đối với những căn lành đã thành tựu của con, dù chỉ một phần nhỏ phước trí cũng không thể cản trở được, huống hồ là đối với pháp bồ đề vô thượng của Như Lai đã tích tụ trong vô lượng A tăng kỳ kiếp mà có thể gây chướng ngại.

Khi đó, Đức Thế Tôn bảo Bồ Tát Từ Thị: Lành thay, lành thay! Này thiện nam! Có bốn pháp mà Bồ Tát phải thực hành.

Những gì là bốn pháp?

Đó là phá trừ ma phiền não, diệt bỏ mọi kiến chấp của ngoại đạo, thành tựu đầy đủ cho các chúng sinh, hộ trì chánh pháp.

Này thiện nam! Đó là bốn pháp, Bồ Tát phải thực hành.

Bốn pháp này lấy một hành để thâu giữ.

Thế nào là một hành?

Đó là hộ trì chánh pháp.

Lúc này, Đức Thế Tôn bảo Tôn Giả Đại Ca Diếp, Đại Đức A Nan: Như Lai đem Kinh này phó chúc cho các ông. Các ông phải thọ trì Kinh ấy và giảng nói rộng khắp cho người khác.

Tôn Giả Đại Ca Diếp thưa: Bạch Thế Tôn! Con sẽ tùy theo năng lực, đối với pháp Bồ Đề Vô Thượng của Như Lai dốc sức giữ gìn, giảng thuyết rộng cho người khác.

Đại Đức A Nan cũng thưa: Bạch Thế Tôn! Con sẽ thọ trì chánh pháp cũng như vậy. Vào đời vị lai, nhờ oai lực của Phật, Kinh này được lưu truyền rộng rãi, không để đoạn mất.

Bấy giờ, Đại Bồ Tát Phước Trang Nghiêm từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay thưa: Bạch Thế Tôn! Kinh này như thế là Như Lai đã thuyết giảng thật hết sức sâu xa, ít có, dứt trừ mọi lưới nghi, diệu nghĩa tối thắng, khó gặp, khó tỏ ngộ, là tánh tương ưng của đệ nhất nghĩa không, dùng giới, định, tuệ để trang nghiêm, hiển bày rõ về sự giải thoát, tịch tĩnh không cấu nhiễm.

Là cảnh giới được nhận biết của các bậc trí, tất cả Chư Phật đều tán thán, cũng là Vua trong các Kinh, dùng ấn chú để ấn chứng, khiến người thọ trì được thành tựu biện tài vô ngại, tăng trưởng trí tuệ kiên cố, không thoái chuyển, phá trừ các ma oán, không bị những kẻ dị học phá hoại, có thể dẹp trừ điều ác, tăng hợp hạnh Đầu Đà, không tham đắm nơi công đức.

Đó là an trụ nơi chánh pháp, với công đức về xả vô cùng lớn lao như thế, làm phát sinh vô lượng pháp và trí của Chư Phật.

Nếu các thiện nam, thiện nữ nào có thể thọ trì, đọc tụng Kinh này, giữ tâm suy nghĩ, giảng nói rõ cho người khác, biên chép, cúng dường, quan sát kỹ lưỡng, tác ý đúng như lý, tương ưng theo chánh hạnh thì được bao nhiêu phước đức?

***