Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Tập Những điều Bồ Tát Hư Không Tạng Hỏi Phật

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI TẬP NHỮNG ĐIỀU

BỒ TÁT HƯ KHÔNG TẠNG HỎI PHẬT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bất Không, Đời Đường
 

PHẦN MƯỜI NĂM
 

Này thiện nam! Đó gọi là đạo xuất thế gian của Bồ Tát.

Đạo này thanh tịnh, nếu Bồ Tát trụ nơi đạo thanh tịnh đó thì có thể đối với các loài hữu tình nơi đường ác tạo ra ánh sáng lớn, do có được ánh sáng này, nên gọi là an trụ trong đạo xuất thế gian. Đạo này tối thắng, vì có thể khiến an trụ để hướng đến Đạo Tràng bồ đề. Đạo này là thanh tịnh, thù thắng, vì có thể xa lìa tất cả các tâm ác. Đạo này là thù thắng, vì có thể đạt đến đảnh trí tuệ của Phật. Đạo này là vô thượng, vì có thể vượt qua dòng thác sinh tử.

Đạo này là không gì bằng, vì không có một pháp nào có thể tướng đồng. Đạo này là hơn hết, từ xa xưa không xa lìa nhân nơi Phật đạo. Đạo này là an ổn, vì khéo có thể chế ngự, thu phục các ma oán. Đạo này là vô ngại, vì trí luôn thuận hợp với mọi diệu dụng của tâm ý.

Đạo này không tối tăm, vì có trí tuệ sáng suốt. Đạo này là ngay thẳng, vì không hề quanh co, dối trá. Đạo này là chánh trực vì xa lìa mọi tà vạy. Đạo này bình đẳng, vì bình đẳng với tâm của hữu tình. Đạo này là rộng lớn vì dung nạp mọi chúng sinh. Đạo này là bao dung vì không hề bức hại lẫn nhau.

Đạo này luôn được sinh khởi vì dứt bặt mọi mệt mỏi. Đạo này là hành trang của phước đức, vì tu tập bố thí Ba la mật. Đạo này không bị phiền não bức bách, vì đã trì giới Ba la mật. Đạo này dứt mọi sự sợ hãi, vì tu nhẫn nhục Ba la mật.

Đạo này là không thoái chuyển, vì thực hành tinh tấn Ba la mật. Đạo này là xa lìa các cảnh, vì tu tập thiền định Ba la mật. Đạo này hiện bày khắp hư không, vì tu trí tuệ Ba la mật. Đạo này là trí tùy thuận, vì có thể khiến biến hóa. Đạo này luôn đầy đủ, vì tích chứa các pháp lành. Đạo này là tùy thuận pháp luân, vì chỗ được lãnh hội không hề quên mất.

Này thiện nam! Đó là đạo xuất thế gian của Bồ Tát. Đạo như thế là thanh tịnh tối thắng không gì sánh. Nếu Bồ Tát muốn an trụ nơi đạo thanh tịnh này, phải mặc áo giáp lớn thành tựu pháp đại thừa, do đó mà đến được Đạo Tràng bồ đề.

Thế nào gọi là mặc áo giáp lớn?

Các Bồ Tát này nếu thấy người nào chưa mặc áo giáp thì khiến họ được mặc mà tu tập pháp đại thừa. Nếu người nào chưa mặc áo giáp giải thoát thì khiến họ được mặc, nhằm để giải thoát mọi trói buộc của kiến chấp nơi phiền não. Người chưa mặc áo giáp an ổn thì khiến họ được mặc, nhằm xả bỏ tất cả sợ hãi. Đối với người chưa mặc áo giáp Niết Bàn thì khiến họ được mặc, vì giúp cho người điên đảo được đạo chân chánh.

Mặc áo giáp giải thoát cho tất cả loài hữu tình, khiến những kẻ chấp ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng tất cả đều thấy là Vô sở đắc. Mặc áo giáp thọ trì chánh pháp, vì không tham đắm nơi thân mạng. Mặc áo giáp làm thanh tịnh Cõi Phật, để tu tập các căn lành không biết chán đủ.

Mặc áo giáp tướng tốt trang nghiêm, vì tích tập vô lượng hành trang của phước đức. Mặc áo giáp phá trừ mọi luận thuyết của ngoại đạo, các ma, vì đạt được diệu lực thần thông. Mặc áo giáp khiến cho tất cả chúng sinh hoan hỷ, vì đạt được bốn trí vô ngại. Mặc áo giáp cầu chánh pháp của Chư Phật để đạt được trí tổng trì.

Mặc áo giáp quán xét tâm cua tất cả chúng sinh, vì đạt được trí thần thông. Mặc áo giáp nhận biết về căn trí trước, sau của tất cả chúng sinh, do đạt được phương tiện trí tuệ. Mặc áo giáp đầy đủ mười lực, vì tích tập mọi diệu lực của trí tuệ. Mặc áo giáp vô sở úy, do đối với tất cả các tâm không hề thoái chuyển. Mặc áo giáp đầy đủ mười tám pháp bất cộng, vì tu tập tất cả pháp thiện, đoạn trừ tất cả pháp bất thiện.

Mặc áo giáp nghe tất cả pháp không kinh, không hãi, không sợ, vì biết rõ tất cả pháp là như mộng, như huyễn, như ánh chớp, như tiếng vang trong hang sâu, như ánh trăng dưới nước. Mặc áo giáp đại bi, vì biết tất cả chúng sinh xưa nay đều thành tựu Niết Bàn.

Mặc áo giáp phương tiện thiện xảo, do vì lãnh hội các pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô hành, tất cả pháp không sinh, mà có thể thị hiện ở nơi chốn sinh tử. Mặc áo giáp gia trì bất động, vì nghe thuyết giảng đều vượt quá tướng quyết định. Tất cả các pháp chẳng sinh, tất cả các hành chẳng diệt, không chọn lấy quả để chứng đắc, đó là Bồ Tát mặc áo giáp đại thừa.

Bồ Tát đã mặc hai mươi thứ áo giáp lớn ấy rồi thì nương nơi pháp đại thừa mà vượt qua bờ bên kia. Lại nữa, thừa này là dùng bốn nhiếp pháp làm bánh xe nên có thể hoàn toàn thâu lấy các chúng sinh, dùng mười căn lành thanh tịnh làm tăm xe nên có thể thông đạt trọn vẹn các hạnh chánh.

Dùng căn lành ý lạc thanh tịnh làm trục xe nên khéo tạo nên cội rễ căn bản của hành thâm diệu, dùng trí duyên sinh rộng lớn làm bầu xe nên đủ sức gánh vác mọi điều thiện của hữu tình, dùng đại từ bi làm vành xe nên thâu nhận pháp bảo quyến thuộc mà trang nghiêm, dùng lực kiến cố làm dây ràng xe nên đạt được công đức tối thắng không thối mất.

Dùng thệ nguyện ban đầu và trí thiện xảo làm sự vận chuyển nên phương tiện của đại bi đều có thể cùng hành hóa, dùng định làm càng xe nên phát huy trí tuệ chân chánh có thể nhận biết đầy đủ về bốn Thánh Đế, dùng tăm xe là sự bố thí không bị ngăn ngại làm hành trang, dùng như ý túc để đi đến các Cõi Phật, dùng dây chánh niệm để giữ vững tâm bồ đề không thoái chuyển.

Lại nữa, thừa này dung nạp rộng rãi cho tất cả các chúng sinh, thu phục hàng Nhị Thừa, chế ngự, phá trừ hàng ngoại đạo và các ma, hiển bày trí tuệ, có the đạt được chỗ tu học thích hợp, rốt ráo của các Bồ Tát, nên các hàng Phạm Vương, Đế Thích, Chư Thiên đều khen ngợi, quy ngưỡng, như an tọa nơi tòa Sư tử, thuyết giảng tất cả các pháp, cũng có thể hiển hiện các sắc tướng vi diệu khiến mọi người đều chiêm ngưỡng không nhàm chán.

Ý chỉ kiên cố như vòng ngọc kim cang không thể bị hư hoại, dùng tâm bồ đề làm người đi trước dẫn đường, khiến cho công đức, hạnh nguyện luôn đầy đủ nơi thân.

Dùng Thiên nhãn thanh tịnh thường quán xét, dùng ánh sáng thanh tịnh chiếu khắp mười phương, thường mưa hoa giác chi thanh tịnh, thường tấu âm nhạc là pháp vô ngại, khéo giảng thuyết giáo pháp tương ưng với chánh lý, khéo giáo hóa các hữu tình đồng loại, được tất cả các Bồ Tát làm quyến thuộc, vô lượng công đức trang nghiêm, phát sinh nhất thiết trí vô thượng.

Này thiện nam! Như vậy, Bồ Tát đã mặc đầy đủ hai mươi thứ áo giáp thanh tịnh, nương nơi đại thừa này, trụ vào đạo xuất thế, làm Phật Sự, tạo mọi an ổn cho chúng sinh.

Lúc thuyết giảng về pháp áo giáp đại thừa trang nghiêm này, có bảy vạn hai ngàn hàng Trời, người phát tâm Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác, có ba vạn hai ngàn Bồ Tát đối với đạo xuất thế gian đều được thanh tịnh, đạt pháp nhẫn vô sinh.

Bấy giờ, Bồ Tát Bảo Cát Tường hỏi Bồ Tát Đại Hư Không Tạng: Thưa Nhân Giả! Đối với đạo xuất thế gian, ông đã đạt được thanh tịnh chăng?

Bồ Tát Hư Không Tạng đáp: Thiện nam! Đúng như vậy, tôi đã đạt được thanh tịnh.

Lại hỏi: Thế nào là đã được thanh tịnh?

Đáp: Do ngã thanh tịnh cho nên đã được thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là ngã được thanh tịnh?

Đáp: Vì thế gian thanh tịnh, cho nên ngã thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là thế gian thanh tịnh?

Đáp: Thiện nam! Khoảng trước của sắc thanh tịnh nên không đi, khoảng sau của sắc thanh tịnh nên không đến, khoảng giữa của sắc thanh tịnh nên không trụ. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Khoảng trước của thức thanh tịnh nên không đi, khoảng sau của thức thanh tịnh nên không đến, khoảng giữa của thức thanh tịnh nên không trụ.

Thiện nam! Do đấy gọi là thế gian thanh tịnh.

Hỏi: Thưa Nhân Giả! Thế gian thanh tịnh như vậy thì chỗ hiển bày như thế nào?

Đáp: Này thiện nam! Hiển bày là tất cả các pháp thảy đều thanh tịnh.

Hỏi: Thế nào là hiển bày tất cả các pháp đều thanh tịnh?

Đáp: Do dùng trí tuệ nên nhận biết về từng phần của khoảng trước, khoảng sau nơi tất cả các pháp.

Hỏi: Thế nào la từng phần của khoảng trước, khoảng sau nơi tất cả các pháp?

Đáp: Vì không đoạn, không thường.

Hỏi: Vì sao nói các pháp là không thường, không đoạn.

Đáp: Nói không thường, không đoạn là không sinh, không diệt.

Hỏi: Nơi các pháp là không sinh, không diệt thì làm sao nêu bày?

Đáp: Nói không sinh không diệt là dứt mọi ngôn thuyết.

Hỏi: Thế nào là pháp dứt mọi ngôn thuyết?

Đáp: Đó là pháp không thuộc về số lượng.

Hỏi: Nhân Giả! Nếu pháp không thuộc về số lượng thì tại sao lại tùy theo nơi danh số?

Đáp: Thiện nam! Ví như hư không, không tùy theo danh số, chỉ dùng danh số để giả gọi là hư không, như vậy danh số tức là phi danh số.

Hỏi: Thế nào là môn danh số, phi danh số?

Đáp: Môn số là nói về các pháp hữu vi. Môn phi số là nói về các pháp vô vi. Lại, pháp số và pháp phi số đều là vô vi, cho nên Đức Phật dạy phải dùng trí tuệ, xa lìa tất cả các pháp thuộc về số lượng, tính lường.

Nơi số lượng của hữu vi thì dùng thức để quan sát, suy xét đúng như lý. Khi ấy, chẳng còn thấy pháp này nên đoạn hay không nên đoạn, pháp này nên chứng hay không nên chứng, pháp này nên tu hay không nên tu, chẳng thấy các pháp cũng chẳng thấy có hạn lượng.

Nếu không nhận thấy không lường xét thì lúc đó tức đạt được không còn chấp trước và dứt mọi mong cầu. Nếu không có mong cầu thì không còn đối tượng được duyên, không còn đối tượng được duyên tức đạt được vô ngã, nếu đạt được vô ngã thì dứt hết mọi chấp, vướng.

Hỏi: Thế nào là không còn đối tượng để vướng chấp?

Đáp: Chẳng chấp sắc là thường là vô thường, chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức là thường là vô thường. Chẳng chấp sắc là khổ hay là vui, chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức là khổ hay là vui, chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức là khổ hay là vui.

Chẳng chấp sắc là ngã, là vô ngã, cho đến chẳng chấp thức là ngã là vô ngã. Không chấp sắc là tịnh là chẳng tịnh, cho đến chẳng chấp thức là tịnh là chẳng tịnh, không chấp sắc là không là chẳng không, cho đến chẳng chấp thức là không là chẳng không, tức đạt được pháp tam muội không còn chấp, đạt được định này rồi thì thường khởi tâm đại bi, hóa độ các chúng sinh, không còn thấy lưu chuyển nơi sinh tử, phiền não.

Vì sao?

Vì tánh của sinh tử và Niết Bàn là không sai khác, ở nơi các hữu tình hiện thấy có Niết Bàn. Cũng nhận biết tự thân xưa nay là Niết Bàn, đó gọi là Bồ Tát hành Bát Niết Bàn.

Hỏi: Thiện nam! Thế nào là Bồ Tát hành Bát Niết Bàn?

Đáp: Bát Niết Bàn gọi là không có hành quán, hồi hướng đến nhất thiết trí. Đối với nhất thiết trí, không mong cầu đạt sắc, không mong cầu đạt thọ, tưởng, hành, thức.

Do tâm không mong cầu nên trụ nơi giới thanh tịnh, bản nguyện được đầy đủ, ở nơi tất cả các pháp không còn thấy tăng giảm, đạt được bình đẳng, an trụ nơi pháp giới, nhờ trụ nơi pháp giới nên thực hành hạnh Bồ Tát, cũng không có pháp để hành, để làm.

Này thiện nam! Đó là Bồ Tát hành Bát Niết Bàn.

Hỏi: Thế nào là quan sát về Niết Bàn có hành và không hành?

Đáp: Này thiện nam! Bồ Tát tác ý quan sát về Niết Bàn gọi là có hành, nên chứng đắc vô hành, do vô hành nên gọi là Niết Bàn. Lại, Bồ Tát đối với mọi ngôn thuyết, giảng nói đều không phân biệt, gọi là Niết Bàn.

Lại nữa, Niết Bàn gọi là bờ bên kia. Bờ bên kia không có các tướng, đối với các tướng ấy tâm không còn chấp giữ, nên gọi là Niết Bàn. Lại nữa, bờ bên kia gọi là không phân biệt, đối với bờ bên kia không khởi tâm phân biệt, nên gọi là Niết Bàn. Lại nữa, bờ bên kia không có chứa nhóm, đối với bờ bên kia không khởi tâm chứa nhóm, nên gọi là Niết Bàn.

Này thiện nam! Hành như thế thì gọi là Bồ Tát hành Bát Niết Bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Hư Không Tạng: Lành thay, lành thay! Chánh Sĩ đã khéo giảng nói về pháp này, khế hợp với nẻo hành Bát Niết Bàn của Bồ Tát.

Lúc thuyết giảng pháp này, ở trong chúng hội có năm trăm Bồ Tát đạt được pháp nhẫn vô sinh.

Khi ấy, Bồ Tát Đại Hư Không Tạng bạch Phật: Kính bạch Thế Tôn! Do ánh sáng trí tuệ của Như Lai đã chiếu sáng cho chúng con, nên đạt được điều này, chẳng phải là khả năng của con. Ví như ánh sáng mặt trời soi chiếu mọi hình tượng, mau sắc hiện có nơi Cõi Diêm Phù Đề, uy lực từ ánh sáng trí tuệ của Đức Thế Tôn Đại Điều Ngự cũng như vậy, có thể làm cho chúng con hiểu rõ về các pháp.

Bấy giờ, Bồ Tát Bảo Cát Tường nói với Bồ Tát Hư Không Tạng: Thiện nam! Vì sao Nhân Giả lại che giấu trí của mình, mà cho tất cả đều là sự hộ trì của Như Lai?

Bồ Tát Hư Không Tạng nói: Mọi biện tài mà tất cả Bồ Tát đạt được đều từ sự gia hộ của Như Lai, chẳng phải chỉ riêng mình có.

Thiện nam! Nếu Như Lai không thuyết giảng các pháp thì Bồ Tát do đâu mà đạt được biện tài.

Bồ Tát Bảo Cát Tường nói: Nếu nhân nơi Như Lai mà sinh ra biện tài của Bồ Tát thì nên biết mọi biện tài của Phật có thể dời đổi chăng?

Bồ Tát Hư Không Tạng đáp: Biện tài của Như Lai không có dời đổi, chỉ làm nhân duyên cho Bồ Tát. Do nhân nơi các pháp của Như Lai đã thuyết giảng nên sinh ra biện tài của Bồ Tát. Ví như vô minh không chuyển đến hành, chỉ vì hành nhân nơi vô minh mà sinh khởi. Như vậy biện tài của Phật không di chuyển, chỉ là làm nhân để phát sinh ra biện tài của Bồ Tát.

***