Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THÔNG PHƯƠNG QUẢNG

SÁM HỐI DIỆT TỘI

TRANG NGHIÊM THÀNH PHẬT

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trở Cừ Kinh Thinh, Đời Tống
 

PHẦN CHÍN
 

Lúc ấy tất cả đại chúng đều được thấy chư phân thân Phật. Sở dĩ được thấy là do sự oai thần của Đức Thích Ca Mâu Ni. Khi Đức Thế Tôn hiện sức thần thông oai đức, trong chúng có bốn mươi hằng hà sa Bồ Tát đắc vô sanh pháp nhẫn. Tám mươi muôn Thanh Văn phát tâm đại thừa.

Mười ngàn Tỳ Kheo Ni đắc quả A Na Hàm. Bốn ức Ưu Bà Tắc chứng quả Tư Đà Hàm. Mười ức Ưu Bà Di đắc quả Tu Đà Hoàn. Vô lượng Trời người được pháp nhãn tịnh, tự biết đời trước của mình và biết tất cả các pháp hữu vi thảy đều vô thường.

Bấy giờ Sư Tử Hống Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh y phục, lễ kính nơi chân Phật và thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Như trước Thế Tôn đã nói: Nghe danh hiệu Phật được diệt tội, nghe danh hiệu pháp được diệt tội, nghe danh hiệu Tăng cũng được diệt tội. Đó là do sức công đức của Phật, của Pháp và của Tăng. Vì Phật lực nên cầu Phật, vì Pháp lực nên cầu Pháp, vì Tăng lực nên cầu Tăng.

Thế Tôn trước nói chỉ có nhứt thừa, nay sao lại phải cầu đến ba?

Chúng sanh thấy có ba, Phật còn tự nói có ba ngôi huống chi là chúng sanh.

Đức Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát Ma Ha Tát rằng: Lành thay! Lành thay! Ông hỏi ngĩa ấy rất có lợi ích cho chúng sanh. Vậy hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ vì ông mà giải nói rành rẽ.

Này thiện nam tử! Chẳng những Phật lực mà Pháp lực và Tăng lực đều là chúng lực. Phật là chỗ chúng sanh quy y, như nương về cha mẹ. Bồ Tát Tăng là những bậc tri thức chứng minh. Đức con mê chúng sanh, nếu tỉnh ngộ, sẽ tự sanh chán lìa, niệm cầu Tam Bảo. Sức niệm lâu ngày càng nhiều, cầu ra khỏi biển cả phiền não của ba cõi. Kinh Phương Quảng là chiếc thuyền lớn để đưa chúng sanh vượt qua biển ấy.

Thiện Nam Tử! Phật tức là Pháp, Pháp tức là Tăng, Tăng tức là vô vi, vô vi tức là không, vô vi không tức là chân không. Trong không, ngoài không, lớn không, nhỏ không, đều về nơi nhứt không, chẳng có cái không nào khác biệt.

Thiện Nam Tử! Như lời ông đã hỏi, nên cầu một, cần gì phải cầu ba?

Này Thiện Nam Tử! Ví như có một người sợ hãi hư không, đi khắp các nơi tìm chỗ ẩn thân, vẫn chẳng thoát khỏi hư không.

Thiện Nam Tử! Chư Phật mười phương và ta tuy nói nhân duyên muôn pháp lành, cho đến Tam Bảo cùng Tam Thừa, thật ra vẫn chỉ có một! Lời thuyết giáo trước, giữ và sau đều thiện, vì tất cả chúng sanh mà tùy cơ phương tiện, phân biệt nói thành ba.

Thế cho nên gọi là Nhứt Tướng Tam Bảo!

Sư Tử Hống Bồ Tát thưa rằng: Hay thật! Hay thật! Đúng như lời Đức Thế Tôn chỉ dạy, con đã biết từ lâu, nhưng vì chúng sanh mới hỏi việc như thế.

Bạch Đức Thế Tôn! Thật đúng như Thánh Giáo, các pháp về một, không hai không ba. Thế nên Kinh Phương Quảng là mẹ Chư Phật, là đạo lớn của Bồ Tát, là mắt sáng của chúng sanh, dẫn dắt người tà kiến, cứu hộ kẻ mất tâm, dứt ba đường ác, mở cửa Vô Thượng Bồ Đề, đưa các hàng Thanh Văn đến ngôi đại thừa cực quả.

Nay con xin nói môn Đại Đà Ra Ni, để cho Hành Giả được sự thủ hộ, tịnh trì giới hạnh, tu học Kinh này. Nếu kẻ nào tin ưa kính trọng Kinh Đại Thông Phương Quảng, lập nguyện tu hành bảy ngày, như ác ma muốn đến làm não loạn, con sẽ khiến cho chúng không được tùy tâm tự tiện.

Bạch Đức Thế Tôn! Con xin hộ trì Kinh này khiến trụ lâu nơi đời, cho đến khi Hành Giả chứng tận Bồ Đề Tánh!

Phật dạy: Thiện Nam Tử! Ông hộ trì Kinh này tức là hộ trì Tam Bảo, cũng ủng hộ cho người hành giáo.

Khi đó Sư Tử Hống Bồ Tát liền ở trước Phật nói chân ngôn này:

Na mô Buýt đà, na mô Đạt ma, na mô Săng già. A đàn địa, đà ra ni, dà đà ha. A già sà ni bà, tỳ tát bà đạt ma. Ni bà tỳ y xá na, đa tỳ bà xá na. Tỳ ma la, tu bát ly đạt ma ni, dà na bà lâu ni. Xoa dạ đa, ma lệ, giá lệ. Hu lu, hu lu, sư bệ đế. Mạn đá la, mạn đá la. Sóa ha.

Chân ngôn nên mỗi lần nên tụng một trăm biến và nhiễu bảy vòng. Hành trị bảy ngày như thế, mỗi ngày ba thời. Trong bảy ngày không niệm Kinh nào khác, duy để tâm nơi Phương Quảng, và không nghĩ đến cảnh chi khác.

Bạch Đức Thế Tôn! Đà Ra Ni này tám trăm muôn ức Chư Phật đã nói, nay con trùng tuyên lại, nếu kẻ nào phỉ báng chân ngôn này tức là phỉ báng Chư Phật Như Lai. Đã phỉ báng chân ngôn này, thì đời đời không thành đạo, không ra khỏi ba cõi.

Tại sao thế?

Vì chân ngôn này hay khiến cho kẻ mất tâm được hoàn lại bổn tâm. Kẻ nào được nghe Đà Ra Ni này qua một lần, hãy nên biên chép, tự giữ các giới, không uống rượu ăn thịt, xa lìa sự đùa cợt, không vào quán chợ, thường hành tâm đại từ, và quý việc tọa thiền.

Kẻ đó từ vô lượng kiếp cho đến nay, dù có ba chướng tội nặng, khi nghe chân ngôn này rồi chí tâm thọ trì, hằng ngày đọc tụng không quên và giữ giới hạnh như thế, sẽ mau chứng quả Vô Thượng Bồ Đề, không còn bị đọa tam đồ nữa!

Đức Phật bảo Sư Tử Hống Bồ Tát: Lành thay! Thiện nam tử! Ông hay hộ trì ngôi Tam Bảo, thương nghĩ đến tất cả chúng sanh, muốn khiến cho thoát ly ba cõi, nên nói ra chân ngôn như thế. Ông thuyết chú này làm lợi ích lớn cho vô lượng học nhân, phá trừ tà kiến, mở mang chánh đạo.

Thiện nam tử! Tất cả chúng sanh nếu kẻ nào nghe thấy danh hiệu ông và âm thanh của chân ngôn này, kính tin chẳng khinh hủy, sẽ được nhiều lợi ích. Người ấy hiện đời an ổn, đến khi mạng chung thường thấy Chư Phật, cũng được thấy ta, thấy thân ông cùng chư Bồ Tát. Kẻ đó tự biết mình sẽ được thành Phật, quyết định không còn nghi.

Tất cả nhân duyên thấy Phật Tánh, trước tiên đều do lòng tin thanh tịnh, kế đó trừ bỏ hết điều ác, tu tập muôn hạnh lành, và cuối cùng sẽ thành Phật Đạo!

Đức Phật lại bảo: Sau khi ta diệt độ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, hoặc một ngày, hoặc một đêm, hoặc một thời, hoặc một niệm, lễ bái Chư Phật mười phương ba đời, mười hai phần Kinh, chư Đại Bồ Tát, tâm niệm đại thừa, suy nghĩ đệ nhứt nghĩa. Người đó trong một niệm bằng khoảng khảy ngón tay, tất cả thập ác, ngũ nghịch, và báng Kinh Phương Đằng đều được tiêu trừ.

Nếu có hàng Bồ Tát, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, hoặc mất bổn tâm, hoặc phạm tội tứ trọng, bát cấm, lục trọng, thập ác, ngũ nghịch, như sanh lòng tin lễ bái danh hiệu Chư Phật mười phương ba đời, thì những nghiệp ấc ấy được tiêu diệt hết, không còn mảy may.

Đức Thế Tôn vừa nói xong, khi ấy có Thiện Kiến Vương Tử cùng với đồng bạn ba ngàn vị, từ Cõi Phật Định Quang trong giây phút bổng hiện đến trước Như Lai, kính lễ nơi chân, đồng thanh thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn!

Chúng con từ vô lượng kiếp tới nay, tạo nhiều nghiệp ác, nói không thể xiết! Hoặc phạm thập ác, ngũ nghịch, hoặc báng Kinh Phương Đẳng, hoặc tạo vô lượng A tăng kỳ tội. Nguyện xin nương nhờ sức oai đức của Như Lai, mười hai phần Kinh, cùng chư Bồ Tát, tỏ bày cầu sám hối. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn hứa nhận cho chúng con!

Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Tâm sợ khó sanh, lòng thành khó phát. Muốn sám hối tội thập ác, tội ngũ nghịch, cho đến kẻ Xiển Đề muốn thấy Phật Tánh, đều phải nên như thế.

Vậy các ông hãy tùy ý nói ra! Lúc đó Thiện Kiến Vương Tử cùng đồng bạn ba ngàn vị, nghe từ âm của Phật, chỉnh y phục, trệch áo vai bên mặt, gối hữu quì xuống đất, chắp tay thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn!

Chúng con hôm nay quy mạng mười phương Phật, quy mạng mười phương Pháp, quy mạng mười phương Tăng. Sau xin cúi đầu quy mạng Đông phương A Súc Bệ Như Lai. Quy mạng Nam phương Bảo Tướng Như Lai. Quy mạng Tây phương A Di Đà Như Lai. Quy mạng Bắc phương Diệu Thắng Như Lai.

Quy mạng Thượng phương Hương Tích Như Lai. Quy mạng Hạ phương Ức Tượng Như Lai. Quy mạng Đông phương Phổ Hiền Đại Sĩ. Quy mạng Nam phương Trì Thế Đại Sĩ. Quy mạng Tây phương Quán Âm Đại Sĩ. Quy mạng Bắc phương Mãn Nguyệt Đại Sĩ. Quy mạng Thượng phương Hư Không Đại Sĩ. Quy mạng Hạ phương Kiên Đức Đại Sĩ.

Lại xin cúi đầu quy mạng Bổn Sư Định Quang Như Lai. Quy mạng đương hội Đạo Tràng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Quy mạng chư phân thân Hóa Phật ở khắp mười phương. Quy mạng bậc chứng Phật Tánh đời vị lai. Quy mạng Duy Ma Cật Đại Sĩ, Mạn Thù Thất Lỵ Đại Sĩ.

Quy mạng A Nan Đà Tôn Giả, Ma Ha Ca Diếp Tôn Giả. Quy mạng chư tôn đức xuất hiện từ đạo Thánh Nhân. Quy mạng chư hữu giáo sơ tâm. Quy mạng Đại Tạng Thập Nhị Bộ Kinh. Quy mạng Đại Thừa Phương Đẳng Thánh Điển. Quy mạng chư dư Kinh pháp. Quy mạng bát phần Phật Xá Lợi cập hình tượng. Quy mạng hiện hữu Phật Sự.

Xin khể thủ Phậm, Thích Tôn Thiên. Khể thủ Đao Lợi Tam Thập Tam Thiên Tôn Thiên. Khể thủ tứ phương Hộ Thế Tứ Vương Tôn Thiên. Khể thủ Hư không, Thiên thượng, Địa thượng, Địa hạ, Sơn lâm, Giang hải, Đại thọ, nhứt thiết thần tiên. Khể thủ chư hữu thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, cập đại thần thông. Nguyện xin nghe biết và tác chứng minh. Nguyện tất cả chúng sanh nếu chưa sám hối đều được diệt tội.

Nguyện tất cả chúng sanh cùng quỳ cúi đầu chắp tay, đồng thanh chí tâm sám hối: Chúng con từ kiếp vô thỉ cho đến ngày nay, vì một niệm mê chân tánh, nên lạc theo dòng vô minh, trong nẻo luân hồi, cuồng dại loại tâm, khởi vô lượng đảo kiến cùng phiền não ác nghiệp, tạo vô biên tội không thể kể xiết!

Những tội ấy hoặc từ ba nghiệp sáu căn gây nên, hoặc tự mình làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy kẻ khác làm sanh lòng vui theo. Hoặc có tội biết, tội không tự biết. Hoặc có tội nhớ, tội không nhớ. Hoặc có tội nghi, tội không nghi.

Hoặc có tội phát lồ, tội che dấu. Chúng con gây vô số tội như thế, phần nhiều mình chẳng tự hiểu, ác tâm càng thạnh, chỉ thấy hiện tại, không rõ quả báo đời sau, xa lìa căn lành, gần thầy bạn xấu, bị ác nghiệp ngăn che, trôi theo tập quán phiền não. Ngày nay xin chí thành phát lồ sám hối.

Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con từ vô lượng kiếp cho đến nay vì cuồng dại si mê, đã gây tội hủy báng Tam Bảo, chúng con hoặc làm cho thân danh Như Lai bị tổn thương. Hoặc hủy phá thiêu đốt hình tượng Phật. Hoặc để lộ tượng Phật ngoài sương gió nắng mưa không che đậy.

Hoặc để tượng Phật nơi phòng thấp, mình ở phòng cao. Hoặc để tượng Phật xung quanh, mình ở chính giữa. Hoặc dùng tay chân hay đồ vật chẳng sạch xúc chạm tượng Phật. Hoặc để hơi hôi nhơ xông vào chổ thờ Phật. Hoặc để thân mình lõa lồ trước hình tượng Phật. Cho đến tạo tất cả tội từ nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, hủy phạm Phật Bảo.

Đối với Pháp Bảo, chúng con hoặc phỉ báng Kinh Phương Đẳng Đại Thừa. Hoặc phỉ báng Kinh Điển tam Thừa. Hoặc phỉ báng bậc pháp sư thuyết pháp. Hoặc chánh pháp nói phi pháp, phi pháp bảo là chánh pháp. Hoặc phá hoại thiêu hủy tam Tạng Kinh Điển. Hoặc để Kinh Điển nơi chổ mưa dột nắng soi.

Hoặc để Kinh Điển nơi chỗ không tôn kính. Hoặc dùng tay chân đồ vật không sạch xúc chạm, cùng để hơi hôi xông vào làm ô uế Kinh Điển. Cho đến tạo tất cả tội từ nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, hủy phạm Pháp Bảo.

Đối với Tăng Bảo, chúng con hoặc hủy báng bậc Bồ Tát Thánh Tăng. Hoặc hủy báng bậc Duyên Giác Thánh Tăng. Hoặc hủy báng hàng Thanh Văn hữu học, vô học. Hoặc dùng lời thô ác phỉ báng Năm Bộ Tăng. Hoặc sai khiến, đày đọa, giam cầm, trói buôc năm chúng xuất gia. Cho đến tạo tất cả tội từ nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý, hủy phạm Tăng Bảo.

Do những tội ác đã tạo như thế, ngày nay chúng con vô lượng hổ thẹn và sợ hải!

Nguyện xin quy y ngôi Tam Bảo: Chư Phật từ bi, Kinh Phương Đẳng Đại Thừa, chư Đại Bồ Tát cùng hàng thiện tri thức, bậc cha mẹ. Xin nhận cho chúng con tỏ bày sám hối. Nguyện các tội nặng từ vô lượng kiếp sanh tử cho đến ngày nay thảy đều tiêu trừ. Nguyện từ đây về sau không còn dám tái phạm.

Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con từ vô lượng kiếp đến nay, cuồng dại si mê, đã tạo tội Tứ trọng. Về nghiệp dâm dật, chúng con hoặc làm việc phi pháp phạm hạnh không thanh tịnh đối với hàng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni.

Hoặc phạm hạnh không thanh tịnh đối với năm chúng xuất gia cùng hai chúng tại gia.

Hoặc phạm hạnh không thanh tịnh đối với cha mẹ, anh chị em, con cái, cùng hàng lục thân quyến thuộc.

Hoặc phạm hạnh không thanh tịnh đối với các nam nữ trong loài người, hàng Chư Thiên, quỷ thần, cho đến loài súc sanh.

Hoặc phạm về các tội: Nhân duyên, nghề nghiệp, cách thức dâm dật. Về nghiệp sat hại, chúng con hoặc đã bậc Thánh Nhân, sư tăng, cha mẹ, lục thân quyến thuộc.

Hoặc giết hại từ loài người, các quỷ thần, hàng súc sanh, cho đến loài côn trùng lớn nhỏ. Hoặc tự sát, hay vì bảo vệ mình mà phạm nghiệp sát.

Hoặc vì thù oán, ân ái mà phạm nghiệp sát. Hoặc giết những chúng sanh phát căn lành Bồ Đề. Hoặc vì giữ gìn quốc giới, hay tham chiếm đất đai, đem binh giết hại vô lượng chúng sanh. Hoặc săn bắn, chài lưới, bẫy rập, giết hại vô lượng chúng sanh. Hoặc đốt phá núi rừng giết hại vô lượng chúng sanh.

Hoặc vì tham sự ăn uống mà giết hại vô lượng chúng sanh. Hoặc cày cuốc, nuôi tằm, ép dâu, làm những nghề nghiệp tổn hại đến các loài chúng sanh. Hoặc dùng dao gậy, thuốc độc, bùa chú, trù ếm, dùng các nhân duyên, các cách thức giết hại chúng sanh. Hoặc không có lòng từ bi, không để ý hộ mạng, làm tổn thương chết chóc những loài ruồi muỗi trùng kiến, cùng các sanh vật vi tế.

Vì nghiệp thâu đạo, chúng con hoặc trộm của Chiêu đề Tăng. Hoặc trộm của thập phương Tăng. Hoặc trộm của hiện tiền Tăng. Hoặc trộm của Ngũ bộ Tăng. Hoặc xâm tổn tài vật của một vị xuất gia, cho đến của tất cả đàn việt. Hoặc xâm phạm tài vật của loài người, hàng quỷ thần, kẻ giặc cướp, loại bàng sanh. Hoặc nghề trộm cướp, dùng các nhân duyên, cách thức để trộm cướp.

Về nghiệp đại vọng ngữ, chúng con vốn là phàm phu, chưa chứng chưa đắc, mà tự xưng mình đã chứng đắc. Hoặc tự xưng đắc pháp thượng nhân, đắc pháp Thánh trí thắng pháp. Hoặc tự xưng mình chứng Tứ thiền, tứ đạo quả. Hoặc tự xưng chứng từ ngôi Sơ Địa cho đến quả vị Phật.

Trong bốn trọng tội trên, chúng con hoặc từ nghiệp thân, nghiệp miệng, nghiệp ý tạo ra sâu rộng vô biên. Cho nên ngày nay chúng con vô lượng hổ thiện và sợ hãi.

Nguyện xin quy y ngôi Tam Bảo Chư Phật, Kinh Phương Đẳng Đại Thừa, chư Đại Bồ Tát, cùng hàng thiện tri thức, bậc cha mẹ. Xin nhận cho chúng con tỏ bày sám hối. Nguyện các tội nặng từ vô lượng kiếp sanh tử cho đến ngày nay thảy đều tiêu trừ. Nguyện từ đây về sau không còn dám tái phạm.

***