Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Thừa đảnh Vương

PHẬT THUYẾT

KINH ĐẠI THỪA ĐẢNH VƯƠNG

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư

Nguyệt Bà Thủ Na, Đời Trần
 

PHẦN NĂM
 

Pháp ấy không nghĩ bàn

Gọi là pháp Chư Phật

Pháp kia không thật có

Không cũng hoàn toàn không.

Khi tu hành như vậy

Không chấp vào đời này

Trí ấy luôn thuận hợp

Gọi là trí Chư Phật.

Các pháp không nghĩ bàn

Đối pháp, lý không thật

Vì pháp này không có

Pháp Phật gọi giác ngộ.

Chư Phật và pháp Phật

Tất cả đều không chấp

Không chấp ở bồ đề

Gọi là trí Chư Phật.

Thừa này là đại thừa

Thâu tóm mọi pháp môn

Độ thoát các thế gian

Thế gian không thủ đắc.

Tất cả các Thế Giới

Hiện có các chúng sinh

Bồ Tát vì cầu pháp

Đều gần gũi cung kính

Quán sâu các pháp ấy

Pháp Phật không nghĩ bàn

Vì không chấp các pháp

Người này chứng bồ đề.

Bồ đề cùng với pháp

Tất cả đều không tướng

Người quán xét như vậy

Có thể chứng pháp Phật.

Khi quán xét như thế

Không chấp vào thế gian

Nhờ tâm không chấp giữ

Nên chứng đắc bồ đề.

Lại nữa, Thiện Tư Duy! Các Đại Bồ Tát, người chưa đầy đủ sự trang nghiêm, nay ta sẽ giảng nói. Nếu người nào được nghe pháp môn như vậy mà không sợ hãi, nên biết người ấy đã gần với Đạo Tràng, gần với cảnh giới của Phật, trụ vào đạo giải thoát không chướng ngại.

Quán xét khắp mười phương mà tâm không chỗ chấp giữ, chính là Chư Phật dùng tâm đại từ, đại bi và pháp bất cộng để thể hiện, không nương vào sự che chở của tướng quán đảnh. Người nghe nói pháp môn thâm diệu như thế mà sinh tâm tin tưởng vui thích thì Như Lai thảy đều thấy, biết.

Ở trong Kinh này, người nào không tin hiểu, Như Lai cũng đều biết rõ. Nếu người tin nhận Kinh này thì người ấy là đệ tử của Phật, Như Lai là thầy của người đó.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta đã ngồi Đạo Tràng

Đạo Tràng hoàn toàn không

Vì không chấp bồ đề

Nên an trụ trong trí.

Pháp ấy không chướng ngại

Thể pháp rốt ráo không

Nếu pháp hoàn toàn không

Khi giải thoát mới biết.

Ở trong tất cả pháp

Trí tuệ nên thành Phật

Các pháp và trí tuệ

Đây là điều Phật thuyết.

Phàm phu vọng phân biệt

Lời nói chấp có, không

Chư Phật không phân biệt

Bồ Tát và bậc trí.

Quan sát các thế gian

Thế gian hoàn toàn không

Thế gian luôn vắng lặng

Trí quán cũng như vậy.

Chúng sinh cùng với Phật

Không có tướng phân biệt

Do không có phân biệt

Gọi là từ vô thượng.

Hết các cõi chúng sinh

Chỗ từ bi phát khởi

Bi ấy không thật sự

Bi cùng với sự thật.

Cảnh giới phàm phu này

Như thước, tấc trong không

Xưa không, nay cũng không

Thế gian cũng như vậy.

Gọi là bi vô thượng

Đấy là pháp vô thượng

Gọi là pháp Chư Phật

Cầu chúng, không thủ đắc.

Lời nói của Thiện Thệ

Đấng Đạo Sư vô thượng

Cầu sắc không thể đạt

Như vậy pháp không sắc.

Tùy thế gian nên thuyết

Hư không không giới hạn

Nơi nơi không chấp giữ

Pháp Chư Phật cũng thế.

Tùy thế gian nên thuyết

Trí tuệ vô thượng này

Trí tuệ không nắm giữ

Vì trí không thủ đắc.

Trí kia cũng không thật

Bờ này hay bờ kia

Vì hình tướng nên thuyết

Vì chấp giữ nơi tướng.

Không hành pháp thâm diệu

Nên biết trong pháp này

Tất cả đều bình đẳng

Nếu người dùng tướng nói.

Chẳng phải tri thức thiện

Chúng này hoặc chúng kia

Nếu nói có người cầu

Vì chấp tướng mà nêu.

Kia chẳng tri thức thiện

Hoặc cho pháp là có

Trư bỏ đạt pháp không

Đồng Tử! Pháp của ta.

Không được nói như vậy

Vì ta đã biết khổ

Trong tánh không khổ não

Nếu người nói như thế.

Không ở lâu pháp này

Các pháp vốn không tập

Gọi chúng là có tập

Nếu nói đoạn về tập.

Thì xa lìa pháp này

Nếu ở pháp định ấy

Vốn không, mà phân biệt

Ở trong pháp vốn không.

Xưa nay không có diệt

Nếu vì phân biệt nói

Vốn không, nay sao diệt?

Đồng Tử! Con nên biết.

Thấy ấy chẳng chánh kiến

Người tu tập về đạo

Vì cầu nên diễn nói

Phó chúc cho người cầu.

Tu học ở trong đạo

Ta nói các Bồ Tát

Bậc đại trí tiếng tăm

Ở vào đời vị lai.

Hiểu được nghĩa sâu ấy

Nếu người trì Kinh này

Bậc tối thắng đã thuyết

Gieo trồng nhiều căn lành.

Vì tất cả chúng sinh

Giảng thuyết Tu Đa La

Bậc trí đã thọ trì

Người này đời vị lai.

Hộ trì chánh pháp ta

Nói người ở pháp ấy

Trụ như không phân biệt

Như đấy là bồ đề

Bồ đề không thủ đắc.

Khi Đức Phật thuyết giảng pháp này, Đồng Tử Thiện Tư Duy chứng được pháp nhẫn vô sinh, vô cùng vui mừng, cho là đạt được điều chưa từng có. Lúc Chư Phật thường vì Bồ Tát mà thọ ký là hiện bày việc hy hữu.

Bấy giờ, từ trong miệng Đức Thế Tôn phóng ra các hào quang gồm những màu xanh, vàng, đỏ, trắng, tím, pha lê, tỏa chiếu khắp tất cả vô lượng the giới, trên lên đến Cõi Phạm Thế. Sau khi tỏa chiếu khắp các Thế Giới xong thì trở về chỗ Phật, xoay quanh Đức Phật ba vòng rồi nhập vào Phật đảnh.

Lúc ấy, đại địa chấn động đủ sáu cách. Ở giữa hư không có các Thiên chúng mưa xuống nhiều hoa trời, trầm thủy, hương bột, trổi lên các thứ âm nhạc Trời với âm thanh vi diệu, tam thiên Thế Giới đều thanh tịnh, trang nghiêm giống như Cõi Uất Đan Việt.

Bấy giờ, Tôn Giả A Nan từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, cung kính chắp tay bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Như Lai thị hiện việc hy hữu này?

Nếu không có duyên cớ thì Như Lai không thị hiện tướng lành ấy.

Tôn Giả A Nan nói kệ:

Đạo sư vô thượng trong loài người

Không duyên, không hiện điều diệu kỳ

Nguyện xin Thế Tôn vì chúng nói

Tướng tốt này là nhân duyên gì?

Chư Thiên cùng ở giữa hư không

Cúng dường Bậc Tối Thắng vô thượng

Vô cùng vui mừng mà tán thán

Khéo thuyết pháp môn thắng vi diệu.

Như Uất đan việt ở phương Bắc

Đủ loại hoa đẹp để trang nghiêm

Các hào quang ấy cũng như vậy

Chiếu khắp cõi này đều nghiêm tịnh.

Các pháp của Phật cũng như thế

Vì chư Bồ Tát mà thọ ký

Phóng hào quang lớn, sáng đẹp này

Chiếu khắp mười phương nhập vào đảnh.

Bậc Mâu Ni Vô Thượng Tinh Tấn

Hiện hào quang này việc hy hữu

Như Lai do đâu phóng hào quang?

Xin nguyện đại bi vì con nói.

Đức Phật liền vì Tôn Giả A Nan nói kệ:

Đồng Tử Thiện Tư Duy

Ở chỗ Đức Như Lai

Khắp trồng các căn lành

Sẽ làm Bậc Chánh Giác.

Đức Phật bảo Tôn Giả A Nan: Đồng Tử Thiện Tư Duy này, vào đời vị lai sẽ được cúng dường vô số ức Phật, ở chỗ các Đức Phật luôn tin tưởng, cung kính, dùng đủ các thứ thực phẩm, y phục, đồ nằm, thuốc thang để cúng dường Đức Phật kia.

Sau khi các Đức Phật đó nhập Niết Bàn thì đều thâu lấy Xá Lợi, xây dựng tháp báu lớn cao trăm ngàn do tuần, lấy tất cả vật báu để trang hoàng, dùng những hoa thơm, lọng báu, phướn báu, chiên đàn, trầm thủy, đủ loại vị hương, nhạc hay để ca tung, cúng dường tán thán chư Như Lai kia… và sẽ được thành Phật hiệu là Tịnh Nguyệt.

Gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

***