Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Du Già Kim Cương Tính Hải Mạn Thù Thất Lợi Thiên Tý Thiên Bát đại Giáo Vương

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA DU GIÀ KIM CƯƠNG TÍNH

HẢI MẠN THÙ THẤT LỢI THIÊN TÝ

THIÊN BÁT ĐẠI GIÁO VƯƠNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bất Không, Đời Đường
 

PHẦN HAI MƯƠI BA
 

6. Tuệ tâm: Bồ Tát chí cầu Phật Pháp, ở tâm địa trí nhãn quán soi chiếu gốc rễ cội nguồn.

Không tuệ Śūnya prajñā xưa nay trong tự tính: Chẳng phải là nhân, chẳng phải là duyên, cũng chẳng phải là không có duyên, cũng chẳng phải là không có nhân, cũng chẳng phải là không có nhân. Ở trong không tuệ trung đạo Thánh lực Thánh tính biết thể danh tâm là tâm của thể, tên gọi của tâm, thức phân biệt nhân duyên giả hội của tất cả các pháp là tất cả ta, người giả gọi tên là chủ.

Bồ Tát đối với tất cả chúng sinh rộng hành tuệ trí khiến nhập vào bồ đề cùng thông đồng với đạo, hướng đến nhập vào Phật Quả. Các hạnh, nhân duyên nhập vào Thánh, buông xả phàm, nơi tất cả tâm phàm khiến tiêu diệt hết, tính được thanh tịnh cùng đồng với Phật Đạo.

Nếu Bồ Tát tu phước hữu lậu tức sinh làm Chư Thiên. Nếu tu nghiệp vô lậu thì được nhập vào Bồ Đề vô thượng đạo quả. Thế nên, Bồ Tát tu tất cả pháp thiện, chứng Thánh Trí của Như Lai thì gọi là công dụng của thể tính.

Nếu tất cả ngã kiến thì gọi là công lực cột mở vô minh. Như chướng ngại này, Bồ Tát tu học Kim Cương Tam Ma Địa của Như Lai cho nên dùng Kim Cương Thánh Lực gia trì tất cả chúng sinh hữu tình đều tiêu diệt hết phiền não, được chứng Bồ Đề thường lạc ngã tịnh.

Thế nên, tất cả chúng sinh hữu tình dùng các tập tính của vô minh Avidyā phiền não Kleśa làm gốc rễ của Bồ Đề Bodhi mūla, tu tất cả pháp thiện Kuśala dharma là thể tính công dụng của phiền não chướng tuệ… tức chẳng biết rõ.

Ý ấy thế nào?

Nếu Bồ Tát tu A Nậu Bồ Đề Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trước tiên nên chứng đắc thể tính tính không Thánh tính Thánh trí làm đầu, tu chẳng thể nói, tu chẳng chể nói nhất thiết Kim Cương Phật trí quán tuệ, nhập vào trung đạo nhất đế thì vô minh chướng tuệ ấy khai mở tỏ ngộ chân tịnh, tâm được thanh tịnh.

Bồ Tát quán chiếu tâm tính trong thể tính, lắng tâm thấy trong sạch, mỗi mỗi thấy rõ tính, tức chẳng phãi là có tướng, tức chẳng phải là không có tướng, chẳng phải chẳng phải là nơi tướng, chẳng phải là đến, chẳng phải là đi, chẳng phải là nhân, chẳng phải là duyên, chẳng phải là có tội.

Chẳng phải là không có tội, chẳng phải chẳng phải là nơi tội, chẳng phải là nơi chân như, chẳng phải chẳng phải là tám đảo, không có sinh, không có diệt, lửa ánh sáng tuệ soi chiếu sự ưa thích hư hão, phương tiện chuyển biến, phương tiện khéo léo, thần thông tự tại, Thánh lực thần dụng, đem thể tính của trí làm chỗ dùng của tuệ, được đạt Bồ Đề, mau sẽ thành tựu.

7. Nguyện tâm: Bồ Tát chí thành chẳng lùi, phát đại nguyện rộng lớn, tâm nguyện, tâm cầu nguyện, chí cầu Đại Thừa Bồ Đề Vô Thượng đạo quả cùng với tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sinh đồng tâm, đồng hạnh, đồng nguyện, đồng cầu. Đây gọi là đại nguyện Mahā praṇidhāna cũng gọi là đại cầu Mahā paryeṣaṇa.

Dùng nhân Hetu, dùng duyên Pratyaya, dùng hạnh Caryā, dùng quả Phala… Bồ Tát ở vi trần số kiếp, nguyện cầu Bồ Đề chẳng đứt chẳng dứt, tâm nguyện nối liền tâm nguyện, nối tiếp nhau trăm kiếp, thành Phật diệt tội, thành tựu Đại Cầu.

Chí cầu tâm địa, cầu đến vô sinh không không không tâm, một nguyện quán chiếu nhiều kiếp nhập vào định Samādhi, Thánh tuệ chiếu khắp vô lượng tâm tâm. Mỗi một tâm thấy trói buộc chí cầu chân tính, vô minh tùy diệt, thể tính giải thoát, liền đạt vô lượng diệu hạnh thật cầu tâm, cho nên đạt đến tâm tính cội nguồn, thành tựu A Nậu Bồ Đề.

Vô lượng công đức dùng cầu Paryeṣaṇa làm gốc. Bồ Tát từ lúc mới phát đại nguyện cầu tâm Bồ Đề thời ở khoảng trung gian rộng hành Bồ Tát đạo, hạnh nguyện đầy đủ thì Phật Quả liền thành Bồ Tát ở trong Như Lai tạng tính quán nhất đế trung đạo chẳng dựng lập tất cả nguyện, thường nhập vào tịch tĩnh phi hữu uẩn giới.

Ở trong tất cả tịch tính pháp chẳng phải là ẩn mất, chẳng phải là lộ ra, chẳng phải là sinh, chẳng phải là diệt, chẳng phải là thấy, chẳng phải chẳng phải là thấy, thấy chẳng phải là thấy. Điều thiết yếu là nơi tuệ nhập vào tính như như.

Đay gọi là nhất thiết Chư Phật Bồ Tát bản nguyên như như tự tính căn bản chân như thanh tịnh đại nguyện, nhất thiết hành danh thể tâm tính vô vi vô tướng bản nguyên tính thể Thánh hạnh nguyện.

8. Hộ tâm: Bồ Tát phát nguyện thâm sâu rộng lớn, tất cả Phật Pháp ở đời quá khứ vị lai hiện tại thảy đều hay bảo vệ chẳng tiếc thân mệnh. Bồ Tát lại ở trước mặt Như Lai ba đời, phát thệ nguyện rộng lớn lần nữa, hành Bồ Tát đạo, Thánh lực tịnh.

Hạnh đều cầu Đại Thừa Như Lai Thánh Giáo, Tăng Bảo, Pháp Bảo, Phật Bảo, công đức trang nghiêm tất cả tịnh thổ.

Người chỉnh đốn thực hành việc Phật của Tam Bảo, Như Lai. Hoặc bị Thiên Ma, ngoại đạo, tất cả tà kiến điên đảo, ma ở đời, người ác phỉ báng, giết hại, nhiễu loạn chính tín, ngăn che Phật Pháp, trừ diệt Tam Bảo, chánh pháp của Như Lai với tất cả công đức thì Bồ Tát thề hay chẳng tiếc thân mệnh, chí thành gánh vác bảo vệ chánh pháp của Như Lai, Thánh Giáo công đức của tất cả Chư Phật quá khứ vị lai hiện tại.

Bồ Tát cũng nên vì tất cả chúng sinh, thề cầu Vô Thượng Bồ Đề thì Như Lai ắt trước tiên độ thành Phật.

Tại sao thế?

Vì tâm của Bồ Tát ngang bằng với hư không, đồng với từ bi của Chư Phật, gánh vác bảo vệ không có cùng tận.

Tại sao thế?

Bồ Tát liền hay cùng với chúng sinh trong pháp giới đồng quán Đạo Đế, nhập vào chính tính chân như Bồ Đề, thường tại tịch tĩnh, Thánh Lực gia trì lợi mình lợi người, được diệt tội báo tự tính của chúng sinh, cũng được trừ khử ta, người, chấp dính vào pháp, chấp vào cái thấy trói buộc, tất cả chướng ngại.

Bồ Tát liền quán chiếu thông đạt, nhập vào tâm không có sinh Anutpāda citta: Vô sinh tâm, chẳng thấy tất cả pháp, chứng khởi hai đế Chân Đế và Tục Đế. Quán tâm lắng định, Thánh tính hiện trước mặt, dùng bảo vệ tự tính thanh tịnh căn bản.

Ở trong tính vốn thanh tịnh bản tịnh tính thật không có được thấy: Có tướng, không có tướng, cũng không có chỗ bảo vệ vô sở hộ.

Ở vô hộ thánh tính không có tạo làm, không có thọ nhận, dùng đạt chính tính được tâm tuệ nối kết với tâm tuệ nối kết, đạt vô sinh không Anutpāda śūnya, không không Śūnyatā śūnyatā, đạo trí, Thánh tính, Bồ Đề thảy đều được nhập vào, quán chiếu nhập vào không không không lý lý trống rỗng của không không, tâm mượn phần trống rỗng không phần phân chia huyễn hóa.

Huyễn hóa dấy lên sự trống rỗng không nhập vào Thánh trí tính, chứng như như tính, như có, như không có, như tính pháp thể mượn sự trống rỗng không gom tụ, phân tán chẳng thể được, chẳng thể bảo vệ. Quán tất cả Thánh tính, chứng tất cả pháp sẽ được giải thoát, cũng lại như vậy.

9. Hỷ tâm: Bồ Tát thường trụ vui thích, đối với tất cả chúng sinh trong pháp giới, bên trên rộng hành thiện đạo cứu giúp nhổ bứt tất cả chúng sinh hữu tình thường được an vui. Đã cứu giúp được xong, Bồ Tát luôn sinh tâm vui thích. Đây gọi lả Bồ Tát chứng thành tâm vui thích, lúc đó được thấy thân pháp trí tính của Như Lai.

Bồ Tát vì tất cả chúng sinh hữu thức khiến tình, tính cảm ứng lẫn nhau, nhập vào tri kiến của Phật. Thế nên, dùng vô vi Thánh tính thần thông tự tại của các Như Lai, ở trong pháp hữu tình an lập Thế Giới.

Sức của Thánh tính đạo giả hội hợp thành, nơi tất cả hữu vi: Các vật, chúng sinh từ nghiệp, tình, tính tương ứng với bốn đại đất, nước, gió, lửa hòa hợp với thức Vijñāna của hữu tình cảm ứng lẫn nhau thành Thân Kāya.

Bồ Tát đã được thân xong. Đức Thế Tôn liền khiến Bồ Tát ở trong tính thuộc tự tính của thân tâm này, lắng tâm nhập vào định, soi chiếu vắng lặng, thấy tính. Mượn sự yên tĩnh của không quán Śūnya vicāra mà chẳng nhập vào hữu vi, chẳng nhập vào vô vi, chứng tự tính thanh tịnh của đại lạc tịch diệt không có hợp, không có tan, có thọ nhận để hóa, có pháp để biến.

Bồ Tát chứng tuệ không trí nhập vào sự huyền diệu, thông với tâm Phật, mượn sự trống rỗng không của pháp đạo Dharma mārga nhập vào pháp tính bình đẳng không có tướng, nhất quán tâm Citta, tâm hành Citta caryā: Tác dụng bên trong tâm trống rỗng.

Chứng đa văn biện tài tuệ soi chiếu tính của tâm, khiến tất cả Phật Tính công đức hải tạng ngang bằng như hư không, chứng nhập vào vô tướng Animitta, hỷ trí tâm tâm tính trống rỗng, không có niệm, không có sinh mà thường soi chiếu tính.

Nhập vào tịch diệt định Vyupaśama samādhi, chẳng thấy có tướng, tất cả ngã tính vui thích, bình đẳng, thể tính luôn hiểu rõ mỗi mỗi phần, chứng nhập vào thường, lạc, ngã, tịnh. Tức đây gọi là Như Lai Bồ Đề Niết Bàn Thánh Tính Đạo.

10. Đỉnh tâm: Bồ Tát khởi tâm cao hiển, cứu giúp tất cả chúng sinh, thường hành từ hạnh Maitra caryā, tu trì Phật Trí Buddha jñāna tối thượng, diệt ngã kiến Ātma dṛṣṭi, nhân kiến Pudgala dṛṣṭi, chúng sinh kiến Sattva dṛṣṭi, thọ giả kiến Jīva dṛṣṭi.

Bồ Tát nhập vào trong tĩnh lự định diệt vô ngã luân kiến nghi thân, diệt tất cả vọng tưởng, phiền não căn bản Mūla kleśa, trừ nhóm tham, sân, si… quán chiếu tâm lặng yên, lắng định thấy tính danh, chứng tâm đỉnh như đỉnh quán nối kết, như đỉnh quán nối kết, quán nối kết như đỉnh.

Ở tâm đỉnh pháp giới không tính không có nhân quả, một con đường như như thanh tịnh, tối thắng thượng như đỉnh, như tâm đỉnh của con người rất ư cao quý, chẳng phải chẳng phải là thân kiến Satkaya drṣṭi như hư không rộng lớn, chẳng thể được thấy.

Nơi 62 kiến Dvāṣaṣṭi dṛṣṭayaḥ: Sáu mươi hai loại kiến giải sai lầm của ngoại đạo Ấn Độ thời cổ đại trong năm chúng sinh tính cũng như thế, chẳng thể có thấy.

Nếu Bồ Tát trụ tâm vô lậu, chứng tính lặng lẽ yên tĩnh, chẳng thấy có tâm, liền diệt biến kế sở chấp tính, thần ngã, người chủ… động chuyển, co duỗi, tất cả tướng diệt. Bồ Tát ở trong tam muội chân như tính tịnh của tâm, trống rỗng không, không có chỗ được, không có chộp bắt, không có cột trói.

Người này, bấy giờ Bồ Tát được chứng nhập vào mười không môn Daśa śūnyatā mukhāṇi, nhập vào nội ngoại không Adhyātma bahirdhā śūnyatā, vô biến dị không, bản tính không Prakṛti śūnyatā, tự tướng không Svalakṣaṇa śūnyatā.

Cộng tướng không, nhất thiết pháp không Sarva dharma śūnyatā, bất khả đắc không Anupalambha śūnyatā, vô tính không Abhāva śūnyatā, tự tính không Svabhāva śūnyatā, vô tính tự tính không Abhāva svabhāva śūnyatā.

Bấy giờ, Bồ Tát thường trụ mười không môn. Bồ Tát liền đạt Thánh tính, Thánh đạo, trực tâm, chân không, không có một chúng sinh tính… tâm hư vọng diệt, chẳng thấy duyên, chẳng thấy chẳng phải là duyên.

Bồ Tát trụ đỉnh tam muội soi chiếu lặng yên, chứng diệt tướng phần, kiến phần nhập vào tự chứng phần, đạt chứng tự chứng phần, được trụ tịch diệt tâm định, phát căn bản Thánh hạnh thú đạo thật tính.

Bồ Tát liền đối với ta, người, kiến phộc kiến hoặc của ba cõi, tám đảo, nhân duyên, pháp môn chẳng hai bất nhị pháp môn diệt tận hết không có dư sót. Nơi thế loka, xuất thế Lokottara vĩnh viễn chẳng thọ nhận tám nạn. Rốt ráo chẳng thọ nhận nghiệp quả dị thục huyễn hóa ở biển sinh tử.

Bồ Tát phát tâm đại từ đại bi khiến tất cả chúng sinh: Đi, đến, ngồi, đứng tu nhập vào Như Lai Bồ Đề Thánh Đạo Kim Cương Thánh Tính, tiêu diệt tất cả tội chướng, trừ khử mười ác, sinh mười thiện đạo, nhập vào đạo, chính tính, chính trí, chánh hạnh.

Bồ Tát thông đạt thật tính quán chiếu hiện trước mặt, vĩnh viễn chẳng thọ nhận các quả trong sáu đường sinh tử luân hồi, rốt ráo chẳng lùi Vô Thượng Bồ Đề, Thánh tính của mầm giống Phật. Ở trong pháp Bồ Đề, đời đời kiếp kiếp sinh trụ ở nhà của Phật, nhập vào Phật tính địa, được đồng với Như Lai Bồ Đề chính tín chánh kiến Thánh trí Tam Ma Địa.

Thế nên, như vậy Đức Như Lai nói xong thời các chúng Bồ Tát mỗi mỗi đều theo thứ tự tu học, tin nhận, phụng hành.

Bấy giờ, Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai ở trong Thánh tính của tất cả pháp giới hiện ngàn trăm ức biển Thế Giới, nhập vào Thánh trí Kim Cương Tam Ma Địa Bách Bảo Liên Hoa Hải Tạng Pháp Tính Tam Muội của tất cả Chư Phật.

Đức Thế Tôn từ Tam Muội an lành khởi dậy, ngồi trên tòa Bảo Liên Hoa Thiên Quang Vương Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai bảo rằng: Này tất cả Chư Phật, tất cả Bồ Tát nên biết!

Hãy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ!

Trước kia, ở trong đại hội chúng, ông hỏi về mười tâm trưởng dưỡng. Nay ta vì nhóm đại trí thông Bồ Tát thỉnh hỏi từ mười phát thú tâm này, tu nhập vào trong kiên pháp nhẫn, tu hành mười trưởng dưỡng tâm, hướng đến quả Bồ Đề. Thế nên, Như Lai liền sẽ tuyên nói.

Thế nào là mười trưởng dưỡng tâm?

1. Từ tâm Maitra citta: Bồ Tát y theo Như Lai Từ Tathāgata maitra ở trên tất cả chúng sinh hữu tình, chẳng làm nhân duyên của mười ác, thường quán tự tính sinh từ chính tâm tâm hiền từ chân chính, hành Bồ Tát Đạo đều cứu giúp hữu tình, rộng dẫn quần phẩm chúng sinh chẳng gây tạo duyên ác, thường ở trong vô ngã trí Anātman jñāna soi thấy ngã tính thanh tịnh.

Nhập vào pháp Thánh trí cùng tương ứng với thường lạc ngã tịnh, chứng năm uẩn trống rỗng, sắc thọ tưởng hành thức trống rỗng, không có chỗ đắc trống rỗng, mỗi mỗi phần nhập vào trong tính đại tịch của Phật, không có sinh, không có trụ.

Không có tướng sinh, không có tướng diệt, như huyễn, như hóa, như như một tướng, không có mật, không có hai Bồ Tát phát chí đại nguyện, khởi tâm đại từ, ở trong biện sinh tử của sáu đường cứu độ tất cả chúng sinh, mau khiến lìa khổ, đạt đến Bồ Đề.

Bồ Tát vì tất cả hữu tình trải qua nhiều kiếp dẫn đường, tu hành Bồ Tát Đạo, chẳng thấy có khổ, chẳng thấy có phiền não, thành tựu Bồ Đề, tất cả Pháp Kim Cương Pháp Luân của Như Lai.

Bồ Tát đều chuyển niềm vui đại từ Mahā maitra hóa độ tất cả chúng sinh khiến sinh niềm tin chính đúng, được từ thiện trí Maitra kuśala jñāna, nhập vào biển tát bà nhã Sarva jñā: Nhất thiết trí, đại từ không tuệ Mahā maitraśūnyatā jñāna chẳng do ma Mārā dạy bảo.

Chứng quả từ lạc Maitra sukha: Vui thích giúp cho người khác thoát khổ nhập vào con đường vô sinh Anutpāda mārga: Vô sinh đạo, ở trong Kim Cương Luân thiện từ thật tính thật tính thiện từ của bánh xe Kim Cương, chẳng thấy có quả ác, cũng chẳng thấy có quả thiện, cũng chẳng thấy có ngã tính, tội của sinh tử.

Ở trong Thánh trí pháp tính của tất cả Như Lai chứng hiểu, hành trống rỗng không, được vô ngại Thánh trí tính, nhập vào thể tính hư không Tam Muội, đạt Kim Cương Tam Ma Địa Vajra samādhi của Như Lai.

Như vậy, nói xong theo thứ tự mà diễn, tức cần phải tuyên nói:

2. Bi tâm Kāruṇa citta: Bồ Tát thề sẽ cứu giúp, tu hành bi trí Kāruṇa jñāna của Phật. Tâm bi ấy là bản tính của Như Lai tự có đại bi chân tịnh.

Như vậy, trong đại bi không tính Mahā kāruṇa śūnyatā: Tính trống rỗng của đại bi: không không Śūnyatā śūnyatā, tịch không Śānti śūnyatā, vô tướng Animitta, vô sinh Anutpāda, căn bản bi Mūla kāruṇa duyên với không hành trí tính ở trong Thánh đạo Ārya mārga tự diệt tất cả nhân khổ Duḥkha hetu, gọi là Khổ Đế.

***