Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Du Già Kim Cương Tính Hải Mạn Thù Thất Lợi Thiên Tý Thiên Bát đại Giáo Vương

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA DU GIÀ KIM CƯƠNG TÍNH

HẢI MẠN THÙ THẤT LỢI THIÊN TÝ

THIÊN BÁT ĐẠI GIÁO VƯƠNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bất Không, Đời Đường
 

PHẦN HAI MƯƠI BẢY
 

Bấy giờ, Bồ Tát quán tất cả Khổ Đế của ba cõi, lại quán vô minh gom tập vô lượng tâm, làm tất cả nghiệp Karma nối tiếp nhau liên tục, mỗi mỗi gom tập Nhân Hetu, gọi là Tập Đế Samudaya satya.

Bồ Tát ở tâm bồ đề, thấy chính đúng, thọ nhận chính đúng giải thoát không không đạo trí Vimokṣa śūnyatā śūnyatā mārga jñāna, mỗi mỗi tâm gọi là trí đạo Jñāna mārga, được tên gọi là đạo đế Mārrga satya, hoàn toàn có quả báo, hoàn toàn có vô lậu Anāsravaḥ, công đức vi diệu, hoàn toàn có tuệ thâm sâu của bát nhã thanh tịnh.

Bồ Tát quán kỹ lưỡng nhất chiếu thể tính, diệu trí tịch diệt gọi là diệt đế Nirodha satya, ở phẩm nhất đế tuệ đầy đủ danh căn, tất cả bồ đề tuệ tính… chứng trống rỗng Śūnya: Không nhập vào quán Vicāra, thứ nhất là sơ thiện căn căn lành đầu tiên.

Thứ hai: Bồ Tát quán xả Upekṣa: Buông bỏ tất cả các hành Saṃskāra kết buộc của nhóm tham dính, sân, si… nhập vào tất cả bình đẳng không Samaśūnya, tất cả đại xả không Mahopekṣa śūnya, không có nhân, không có duyên mà quán bờ mé trống rỗng của thật tính, một tính, một tướng của các pháp.

Ta quán tất cả địa Bhūmi ở mười phương thì đất Pṛthivi đều là thân xưa kia của ta, là đất xưa mà ta đã dùng, nước Ab của bốn biển lớn là nước xưa mà ta đã dùng, tất cả kiếp hỏa Kalpāgni là lửa Agni xưa mà thân xưa kia của ta đã dùng, tất cả guồng gió Vāyu cakra: Phong luân là khí xưa mà ta đã dùng.

Nay Ta nhập vào trong địa Bhūmi này, pháp thân trọn đủ, buông bỏ thân cũ của ta, rốt ráo vĩnh viễn chẳng thọ nhận thân bất tịnh thuộc phần đoạn của bốn đại. Đây gọi là đầy đủ Phẩm Xả Upekṣa parivartaḥ.

Thứ ba: Bồ Tát tiếp theo quán nơi đã hóa, dạy bảo chỉ đường cho tất cả chúng sinh hữu tình an vui, cùng với niềm vui Sukha của Trời Người, niềm vui của quả Thập Địa, niềm vui lìa mười ác đáng sợ, được niềm vui của Diệu Hoa Tam Muội cho đến niềm vui thuộc Bồ Đề với Niết Bàn của Phật. Quán như vậy gọi là đầy đủ Phẩm Từ Maitra parivartaḥ.

Lúc đó, Bồ Tát bấy giờ trụ trong địa này, hoàn toàn không có chướng ngại, cũng không có tham dính, không có sân, không có si. Bồ Tát nhập vào bình đẳng thể tính nhất đế thật tính chân như Pháp Tạng, nhập vào Thánh Đạo bổn nguyện Thánh tính, Thánh trí, Thánh lực, thần thông tự tại, dạo qua tịnh thổ pháp tính của tất cả Chư Phật ở mười phương, Thế Giới của Cõi Phật nhiều như số bụi nhỏ.

Trong mỗi một Thế Giới hóa hiện vô lượng pháp thân, vô lượng sắc thân, hiện hình giáo hóa tất cả chúng sinh hữu tình thảy đều an vui, mau lên Phật Quả, Bí Giáo Vô Thượng Bồ Đề của Như Lai.

Ở trong Phẩm Thiên Hoa Quang Minh nói pháp giáo như vậy. Thế nên Đức Như Lai nói xong, cần phải theo thứ tự mà diễn nói.

3. Thể tính quang minh địa: Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai bảo rằng: Nếu Thánh Tử Bồ Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa tu học Ngũ Phật Ngũ Trí Hải Tạng Kim Cương Bồ Đề Tam Mật Tam Ma Địa quán của Tỳ Lô Giá Na Như Lai, nhập vào Quang Minh Thể Tính Địa Chân Tế Pháp Giới Tam Muội. Nơi pháp giáo của tất cả Thánh Hạnh, lợi mình lợi người rộng hành Bồ Tát Hạnh.

Dùng Tam Muội Lực Thánh Tính Giải Liễu Trí biết tất cả pháp môn của Chư Phật ba đời, hợp Bộ Kinh, Nghĩa Lý Pháp Phẩm, Danh Cú, Vị Cú, Trùng Tụng, Ký Biệt, Trực Ngữ, Kệ Bất Thỉnh Thuyết, Luật Nghi Giới, Thí Dụ, Phật Giới Tích Sự, Phương Chính, Vị Tằng Hữu Đàm Thuyết…

Là Thể Tính của pháp tên là nhất nghĩa biệt, đây gọi là trong vị cú nói tất cả pháp hữu vi, mỗi một phần thọ sinh, bắt đầu nhập vào thức thai, bốn đại tăng trưởng, sắc, tâm gọi là sáu Trụ Địa.

Ở trong căn Indriya khởi Thật Giác chưa chia khổ vui gọi là xúc thức, lại hiểu biết khổ lạc thức gọi là ba thọ… mỗi mỗi liên tiếp nối kết hiểu biết, dính mắc nhận chịu khổ khổ khổ thức sự nhận thức của ba loại khổ: Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ không có cùng tận.

Do ham muốn Chanda: Dục, Ngã Kiến Ātma dṛṣṭi chọn lấy kiến thức thiện ác. Tên gọi đầu tiên là sinh thức, tên gọi cuối cùng là tử thức. Đây gọi là Thập Phẩm hiện tại khổ khổ khổ nhân duyên quả… quán con đường trong hành tướng này thì từ lâu ta đã xa lìa.

Bồ Tát từ lâu đã tu niệm, lặng lẽ soi thể tính của mình, nhập vào Quang Minh Tam Muội, thần thông tự tại, tổng trì biện tài, tâm, tâm hạnh trống rỗng Śūnya: Không mà trong Cõi Phật ở mười phương hiện kiếp hóa chuyển, chuyển hóa trăm kiếp ngàn kiếp.

Ở trong cõi nước nuôi lớn thần đạo, thông đạt Thánh tính, lễ kính Như Lai. Ở trước mặt Đức Phật Thế Tôn vâng theo thọ nhận Pháp Ngôn. Lại hiện ở tất cả thân tronng năm đường, trong một âm tiếng nói vô lượng Pháp Phẩm để cứu độ hữu tình, tất cả chúng sinh đều tự mình mỗi mỗi phần được được nghe pháp đã ước muốn trong tâm, âm tiếng của khổ, không, vô thường, vô ngã, nhất đế… cõi nước chẳng đồng, thân tâm hóa riêng biệt.

Đây gọi là trong Diệu Hoa Quang Minh Địa, Đức Như Lai lược mở pháp nơi đầu một sợi lông, Pháp Phẩm như vậy hiếu quán pháp môn, Phẩm Kim Cương Thiên Hải Tạng Tam Muội Phật Tam Ma Địa nói: Bồ Tát tu trì Bồ Đề Bí Mật Thâm Diệu Pháp Nghĩa Đạo Như vậy nói xong, cần phải theo thứ tự mà diễn nói.

4. Thể Tính Nhĩ Diệm Tuệ Địa: Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai bảo rằng: Nếu Thánh Tử Bồ Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa tu trì Ngũ Trí Thể Tính Pháp Tạng Kim Cương Bồ Đề Tam Mật Tam Ma Địa của Tỳ Lô Thế Tôn, quán chiếu nhập vào Nhĩ Diện Thể Tính Địa chân như pháp giới, dùng tất cả pháp giáo, dùng Thánh hạnh cứu độ tất cả chúng sinh.

Ở Nhĩ Diệm Chân Tục Jñeya paramārtha saṃvṛti: Chân Tục đã biết thì Chân Đế Paramārtha satya Tục Đế Saṃvṛti satya không có hai.

cho nên chẳng Đoạn Uccheda dṛṣṭi: Đọan kiến, chẳng thường Nitya dṛṣṭi: Thường kiến, liền sinh Jāti, liền trụ Sthiti, liền dị Anyathātva, liền diệt Anityatā, một kiếp, một đời, một thời, một niệm… có mọi loại khác nhau, hóa khác nhau, hiện khác nhau.

Cho nên nhân duyên trung đạo chẳng phải là một, chẳng phải là hai, chẳng phải là thiện, chẳng phải là ác, chẳng phải là phàm, chẳng phải là Thánh, chẳng phải là Phật, cũng chẳng phải chẳng phải là Phật.

Thế nên, tên gọi chung là Thế Đế Saṃvṛtti satyatva: Chân lý của thế gian.

Bồ Tát Ma Ha Tát Thần dụng sức Thánh tính tự tại tuệ nhập vào thể tính cội nguồn của tất cả chúng sinh hữu tình, phát khởi căn lành Kuśala mūla. Bồ Tát từ kiếp trong tính của bản tự tính tự tính vốn có, nhập vào thể tính của Tỳ Lô Giá Na Như Lai, pháp giới tính của chân như. Chứng nhập vào tính của tất cả chúng sinh, Phật đồng làm một thể. Thế nên gọi là đồng nhất thế đế.

Bồ Tát quán chiếu Mật Hạnh, Thánh Hạnh Thánh Đạo Thánh tính của Như Lai… quán sát kỹ lưỡng, soi thấy Thánh Trí Thánh Hạnh của thể tính, trong tịch diệt Thánh Đạo: Không có một, không có hai, chứng một tính thanh tịnh, nhập vào huyền thông Thánh Định Phẩm, ấy là nói Thánh tính, Thánh trí tâm hạnh của Phật.

Khi tập học sơ giác định thời nhân vào tín giác, tư giác, tĩnh giác, thượng giác, niệm giác, tuệ giác, quán giác, y giác, lạc giác, xả giác.

Đây gọi là Phẩm phẩm phương tiện trí đạo tâm tâm nhập định quả. Người này trụ trong định Samādhi bắt đầu sáng tỏ, thấy tính, pháp hành không không.

Nếu dấy lên niệm định nhập vào tâm không định, sinh u thích thuận theo Thánh Đạo Thánh trí tánh tính, các pháp không có tướng, pháp vốn chẳng sinh… gọi là vô sinh nhẫn pháp, lạc nhẫn, trụ nhẫn, chứng nhẫn, tịch diệt nhẫn.

Do năm nhẫn, Bồ Tát chứng nhập vào Tịnh Thổ của Chư Phật, ở mỗi một ánh sáng trong Quang Hoa Tam Muội hiện vô lượng Phật, dùng bàn tay xoa đỉnh đầu.

Đức Như Lai dùng một pháp âm nói trăm ngàn khởi phát Thánh Giáo Ārya śāstra mà chẳng rời khỏi định: Trụ định, vị lạc định, trước định, tham định, chính định.

Trong một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, nhiều kiếp trụ định, ở trong Tam Muội Samādhi thấy Đức Như Lai ở trên tòa Bồ Đề Kim Cương trong Hội Liên Hoa của Phật, nói trăm Pháp Minh Môn. Người này cúng dường trải qua vô lượng kiếp, như vậy nghe pháp trăm kiếp, trụ định.

Lúc đó, Bồ Tát ở trong ánh sáng của Chư Phật, xoa đỉnh đầu phát khởi Định Phẩm Samādhi parivartaḥ: Xuất tướng, tiến tướng, khứ hướng tướng cho nên chẳng ẩn mất, chẳng lộ ra, chẳng lùi, chẳng rớt, chẳng rơi… trụ đỉnh tam muội, trong pháp Thánh tính của Chư Phật được thượng lạc nhẫn, vĩnh viễn dứt hết không có dư sót.

Bồ Tát quán chiếu liền nhập vào tất cả tịnh thổ của Chư Phật, tu trì vô lượng công đức Phẩm Hạnh, hành đạo sáng tỏ, nhập vào thiện quyền phương tiện, giáo hóa tất cả chúng sinh, hay khiến được thấy, chứng thể tính thường lạc ngã tịnh của Phật.

Thế nên, Bồ Tát sinh trụ như trong địa này: Dạy bảo chỉ đường, hành hóa, tu tập pháp môn dần dần vào sâu trong diệu hoa quán trí, nhập vào tất cả pháp của tam mật thể tính trung đạo, Tam Ma Địa Môn, pháp phẩm đầy đủ giống như mặt trời, mặt trăng sáng chói trên trăm ngàn Kim Cương, Thánh Tính Đạo Phẩm. Đức Như Lai nói diễn thành tựu trăm ngàn Kim Cương Tam Muội, Phật Tam Ma Địa cho nên.

Phẩm Bồ Đề Trí Môn làm sáng tỏ nghĩa này.

Như vậy nói xong, cần phải theo thứ tự mà diễn nói.

5. Thể Tính Tuệ Chiếu Địa: Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai bảo rằng: Nếu Thánh Tử Bồ Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa tu tiến Ngũ Trí Bảo Kim Cương Tạng Bồ Đề Tam Mật Tam Ma Địa của Tỳ Lô Thế Tôn, quán nhập vào tuệ chiếu thể tính địa, chân không pháp giới.

Dùng sức của Thánh Đạo, pháp nhất thiết trí Sarvajñā, lợi mình lợi người, rộng cứu giúp chúng sinh hữu tình. Ở mười loại pháp lực quán môn thuộc Thánh hạnh của Như Lai, đạt tất cả Bồ Tát tâm địa, khiến nhập vào Thánh hạnh địa với tất cả thương sinh trăm họ mau vượt lên Bồ Đề Bodhi, ở Phẩm thập lực Thánh trí đạo.

Bồ Tát quán hành, nhập vào địa phát khởi tất cả công đức, từ pháp hạnh của Chư Phật có mười sáu lực quán, nhất thiết trí, nhất thiết tuệ, phương tiện trí, biết phẩm thiện ác nhị nghiệp biệt hành xứ lực ác làm thiện, thiện làm ác thì gọi là phẩm tác nghiệp trí lực.

Dùng tất cả làm thiện, muốn cầu quả báo, cầu đại nguyện tốt. Ở sáu đường hóa làm thiện, đời đời tu thiện quả Kuśala phala thì gọi là phẩm dục lực.

Ở sáu đường này, phân biệt thiện tính, ác tính, hảo tính, dị tính chẳng đồng nhau thì gọi là phẩm tính lực.

Dùng căn lực của tất cả thiện ác, mỗi mỗi chẳng đồng nhau thì gọi là phẩm căn lực.

Dùng tà định, si định, chính định, bất định thì gọi là phẩm định lực.

Dùng tất cả nhân quả tướng thừa, quả thừa, nhân thừa là quả ác đến quả ác, là quả thiện đến quả thiện, quả xứ thừa, xứ lực thừa, nhân thừa, quả thừa, Thánh thừa, đạo thừa là phẩm đạo lực.

Dùng năm loại mắt mắt thịt, mắt trời, mắt tuệ, mắt pháp, mắt Phật biết tất cả pháp, thấy tất cả thọ sinh cho nên gọi là phẩm thiên nhãn lực.

Nơi việc của trăm kiếp, ngàn kiếp, mỗi mỗi biết mỗi một đời trước thì gọi là phẩm thế lực.

Dùng tất cả chúng sinh tu Bồ Tát Hạnh. Đức Như Lai dùng sức của Thánh Đạo gia trì, diệt hết tất cả phiền não, vô minh, sinh tử thì gọi là phẩm giải thoát lực chính vì thế cho nên gọi là phẩm mười loại quán lực.

Bồ Tát dùng trí lực của mình, biết tự tu nhân quả, cũng biết nhân quả của tất cả chúng sinh hữu tình thì gọi lả thù phẩm.

Bồ Tát dùng Thánh Trí phân biệt thiện ác rồi dùng thân miệng ý phân biệt nhận dùng trí lực tự tại.

Dùng cõi nước thanh tịnh làm cõi nước uế ác, dùng cõi nước uế ác làm cõi nước diệu lạc, hay chuyển thiện làm ác, hay chuyển ác làm thiện, sắc hình sắc làm phi sắc chẳng phải là hình sắc, phi sắc làm sắc, chuyển nữ làm nam, chuyển nam làm nữ, chuyển lục đạo sáu đường làm phi lục đạo chẳng phải là sáu đường, chuyển phi lục đạo mà làm lục đạo.

Cho đến tất cả các pháp với đất nước lửa gió, chẳng phải là đất nước lửa gió… tất cả cũng như vậy.

Thế nên, Bồ Tát dùng đại phương tiện Thánh trí lực gia trì nơi thân miệng ý của tất cả chúng sinh hữu tình. Dùng Thánh tính, Thánh lực, tiến phần bồ đề, vô lượng công đức chẳng thể so lường, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là địa bậc dưới hạ địa, nơi mà tất cả các Bồ Tát hay hiểu biết, nhấc bàn chân, hạ bàn chân, mỗi một Thánh Đạo…

Thế nên, Bồ Tát quán hành, nhập vào đại minh tuệ dần dần tiến đạo, mỗi mỗi phần đạt nhập vào Thánh Trí Bồ Đề, chứng mỗi một ánh sáng của trăm tam muội, ánh sáng chiếu vô lượng vô biên pháp giới tịnh thổ của Chư Phật.

Bồ Tát giáo hóa vô lượng hữu tình chẳng thể nói, chẳng thể nói. Dùng tất cả đại trí bát nhã Ma La Mật pháp thường hiện tại thực hành trước tiên như vậy nói xong, cần phải theo thứ tự mà diễn nói.

6. Thể Tính Hoa Quang Địa: Đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai bảo rằng: Nếu Thánh Tử Bồ Đề Tát Đỏa Ma Ha Tát Đỏa tu chứng ngũ trí Bồ Đề trí tạng Kim Cương Tam Mật Tam Ma Địa của Tỳ Lô Thế Tôn, quán chiếu nhập vào thể tính hoa quang địa, chân tịnh pháp giới.

Bồ Tát mỗi mỗi nương theo mười loại thần thông thánh trí pháp giáo của Như Lai, dẫn đường cho tất cả thương sinh trăm họ lợi mình lợi người, dùng hạnh nguyện không có cùng tận nhiếp độ hữu tình, đạt tiến Bồ Đề, thành vô thượng đạo.

Bồ Tát khởi lên câu hỏi: Làm thế nào mà ở trong tất cả Thế Giới, dùng thần thông trong Phẩm Minh Trí, Đức Như Lai dạy bảo trao truyền cho các Bồ Tát với chỉ bày cho tất tả chúng sinh, khiến tu Bồ Đề?

Thế nên, Đức Như Lai đáp rằng: Bồ Tát ở địa này, quán hành nhập vào Hoa Quang Thể Tính Địa, dùng mười trí thần thông biết mọi loại Thánh Lực tự tại biến hóa.

Dùng quán thiên nhãn minh trí biết biết mỗi mỗi phẩn trong tất cả hình sắc ngang bằng với số bụi nhỏ trong cõi nước ba đời, thành thân của chúng sinh trong sáu đường, mỗi một thân: Hình sắc nhỏ nhiệm thành mỗi một phần của hình sắc to lớn.

Dùng trí biết quán thiên nhĩ minh trí biết âm thanh vui khổ, chẳng phải chẳng phải là âm, chẳng phải chẳng phải là tiếng với tiếng của tất cả pháp của chúng sinh nơi sáu đường nhiều như số bụi nhỏ trong ba đời ở mười phương.

Dùng quán Thiên Thân minh trí biết tất cả mỗi một hình sắc, chẳng phải là hình sắc, chẳng phải là hình nam, chẳng phải là hình nữ.

Dùng trong một niệm biết khắp lượng kiếp trong cõi nước ba đời ở mười phương, số lượng tất cả thân nhiều như số bụi nhỏ trong cõi nước lớn nhỏ.

Dùng quán Thiên tha tâm minh trí biết chỗ hành trong lượng tâm của chúng sinh hữu tình ba đời. Hạnh thô, hạnh tế nhiều như số bụi nhỏ, thần dụng biến hóa đều biết hết.

Dùng quán thiên Thánh Trí biết nhóm việc thiện ác, khổ vui mà mỗi một tâm của tất cả chúng sinh trong sáu đường ở mười phương đã nhớ. Tất cả các pháp hữu vi, vô vi đều được biết hết.

***