Kinh Đại thừa

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Du Già Kim Cương Tính Hải Mạn Thù Thất Lợi Thiên Tý Thiên Bát đại Giáo Vương

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA DU GIÀ KIM CƯƠNG TÍNH

HẢI MẠN THÙ THẤT LỢI THIÊN TÝ

THIÊN BÁT ĐẠI GIÁO VƯƠNG

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Bất Không, Đời Đường
 

PHẦN TÁM
 

Án, ma ha bá xả, bát la sa la, bát la sa la, a sa ma sa ma, nan đá sa mạc, tảm mạn đá bạt nại lạc, tam mạn đá tốn na lạc, tảm mạn đá ca lạc, tảm mạn đá bát la sa lạc, sa la sa la.

OṂ MAHĀ PĀŚA PRASARA PRASARA ASAMA SAMA ANANTA.

SAMAḤ, SAMANTA BHADRAḤ, SAMANTA SUNDARAḤ, SAMANTA.

ĀKARAḤ, SAMANTA PRASARAḤ, SĀRA SĀRA.

Hệ hệ mạn nhu phộc la, phộc nhật la khát nga, thân na thân na, tần na tần na, vĩ la nhạ vĩ la nhạ, yết ma bạt nga ma ca, tố khư na na, củ lỗ củ lỗ, độ lỗ độ lỗ, đà đà đà đà, ma ha ma ha, mộ ha dã mộ ha dã, bạo bạo, tỳ ma tỳ ma, nẵng na nẵng na, sa la sa la.

HE HE MAÑJU VARA VAJRA KHAḌGA CCHINDA CCHINDA BHINDA BHINDA VIRAJA VIRAJAKARMA APA GAMAKA SUKHADADA, KURU KURU, DHURU DHURU, DHA DHA DHA DHA, MAHĀ

MAHĀ, MOHAYA MOHAYA, BHO BHO, BHĪMA BHĪMA, NĀDA NĀDA, SĀRA SĀRA.

Ma Ha Tát đát phộc mộ tả dã, ma ma, nẵng tha ma nỗ tắc lý nhạ đá, bá dã, nhục khư, tố khiếm na na.

MAHĀ SATVA MOCAYA MAMA ANĀTHAM ANU SṚJATA APĀYA.

DUḤKHA SUKHAṂ DADA.

Ma ha ca lỗ nê ca, a nẵng thỏ hám, nậu khí cấu hám, sa lỗ nhu hám, ổ bả nột.

Lỗ đố hám, a vĩ vĩ cật đố hám, củ tỉ nỗ hám, sa la noa đạt mộ hám, đát phạm, bà nga phạm, nhục khí đá nam, tố khiếm na na.

MAHĀ KĀRUṆIKA: ANĀTHA UHAṂ, DUḤKHITA UHAṂ, SA RUJAUHAṂ, UPA DRUTA UHAṂ, AVIVIKTA UHAṂ, KUSĪDA UHAṂ, SA RAṆA.

DHARMA UHAṂ, TVAṂ BHAGAVAṂ DUḤKHITĀNĀṂ, SUKHAṂ DADA.

A nẵng tha nam, tát nẵng tha ca la, sa lỗ nhạ nam, nễ lỗ nhạ sa ca la, ổ bả nột lỗ đá nam, tát mạo bát nại la tát phộc, nậu khư, xả ma ca.

ANĀTHĀNĀṂ SANĀTHA KARA, SA RUJĀNĀṂ NIRUJAS KARA, UPA.

DRUTĀNĀṂ SARVA UPADRAVA DUḤKHA ŚAMAKA.

Vĩ vĩ cật đá nam, củ xả la, đạt ma, tảm bà la, bả lý bố la dĩ đá, củ tỉ na nam, vĩ lý dã, na đá, sa la noa, tỳ đạt nhĩ nam, ma ma ti, bà nga tông nẵng thỏ, bà phược, xả la nam, bả la dã noa tát đát la đá, tát phộc nậu khư nễ minh, xả ma dã.

AVIVIKTĀNĀṂ KUŚALA DHARMA SAṂBHĀRA PARIPŪRAYITA, KUSĪDĀNĀṂ VĪRYA DATTĀ SARAṆA VIDHARMĪNĀṂ MAMA ĀPI.

BHAGAVAṂ NĀTHO BHAVA ŚARAṆAṂ PARÂYAṆA SA TRĀTA, SARVA.

DUḤKHANE ME ŚAMAYA.

Tát phộc cật lệ xả, la tạm tất nhĩ, a bả nẵng dã, tát phộc tăng sa lỗ bả nại la.

Tát phộc, nậu khư, nễ minh, nẵng xả dã.

SARVA KLEŚA RAJAS ME APANAYA SARVA SAṂSĀRA UPADRAVA.

DUḤKHA NIME NĀŚAYA.

Củ xả la đạt ma, bả lý bố la noa minh, củ lỗ.

KUŚALA DHARMA PARIPŪRṆA ME KURU.

Tát phộc yết ma phộc la noa, bát phộc đá, nễ minh, vĩ chỉ la.

SARVA KARMA ĀVARAṆA PARVATA NIME VI KIRA.

Ma ha mạo địa tát đát phộc, tế vĩ đá, vĩ lý dã bá la nhĩ đá, dụ nghiễm minh, tăng nễ dụ nhạ dã.

MAHĀ BODHISATVA SEVITA VĪRYA PĀRAMITĀ YOGAṂ ME SAṂ.

NIYOJYA.

A la noa đạt ma, vĩ la nga, vĩ la nhạ, tăng nhạ ha, bát la nhạ ha, đà la nê sa ma, khư sa ma, nhạ la nễ địa, minh lỗ sa ma, ma ha mạo địa tát đát phộc, phộc la na, sa phộc ha.

ARAṆA DHARMA VI RĀGA VI RAJA SAṂ JAHA PRA JAHA.

DHARAṆI SAMA, KHA SAMA JĀLA NIDHI MERU SAMA MAHĀBODHISATVA VARADA SVĀHĀ.

Thiên Tý Thiên Bát Mạn Thù tâm Căn Bản Chân Ngôn Nhiếp Nhất Thiết Pháp Thần Lực Đà La Ni là:

Nẵng mạc tát phộc đát tha khả đế biều la ha biều. Án, câu ma la lỗ bỉ nê, vĩ thấp phộc, tảm sa phộc, a khả sai, a khả sai, lạc hộ lạc hộ, bột lộng bột lộng, hồng hồng, nhĩ nẵng chức, mạn đản thất lý duệ, tố thất lợi dã, đá la dã, mưu hàm, tát phộc nậu khế biều, phát tra phát tra, xả ma dã xả ma dã, a mật lý đố nạp bà vũ nạp bà phộc, bá bán minh, nẵng xả dã. Án, phộc kế duệ la thể nhạ dã. Án, phộc kế duệ thế si sa phộc. Án, phộc kế duệ khiên nhạ dã. Án, phộc kế duệ ninh sắt si dã. Án, phộc kế duệ ma nẵng sa. Án, phộc kế duệ na nẵng mạc. Án, khát nga tát đát phộc, phộc kế duệ hồng, sa phộc hạ.

NAMAḤ SARVA TATHĀGATEBHYU ARHATEBHYAḤ.

OṂ KAMĀRA RŪPIṆI VIŚVA SAṂBHAVA ĀGACCHA ĀGACCHA, LAHU LAHU, BHRŪṂ BHRŪṂ, HŪṂ HŪṂ JINAJIK MAÑJU ŚRĪYE SUŚRĪYA TĀRAYA MĀṂ SARVA DUḤKHEBHYAḤ PHAṬ PHAṬ, ŚAMAYA.

ŚAMAYA, AMṚTODBHAVA UDBHAVA PĀPAṂ ME NĀŚAYA.

OṂ VĀKYE ARTHE JAYA.

OṂ VĀKYE ŚEṢA SVA.

OṂ VĀKYE KHAṂ JAYA.

OṂ VĀKYE NI ṢṬHAYA.

OṂ VĀKYE MĀNASA.

OṂ VĀKYEDA NAMAḤ.

OṂ KHAḌGA SATVA VĀKYE HŪṂ SVĀHĀ.

Mạn Đà La Kết Giới Chân Ngôn: Phạn Văn là: Tư Ma Bạn Đà Đà La Ni Sīma bandha dhāraṇī.

Án, a mật lật đá, vĩ lô cát nễ, khả lật bà, tăng lạc xoa nê, a ca lý sa nê, hồng hồng phán phán tra tra, hồng tra, sa phộc hạ.

OṂ AMṚTA VILOKINE GARBHA SAṂ LAKṢAṆE ĀKARṢAṆE HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ.

Mạn Đà La Đại Quán Đỉnh Mật Ngôn Đà La Ni: Phạn văn là A Tỳ Sái Kế Chân Ngôn Abhiṣeka mantra.

Án, a mật lật đá, phộc lệ, phộc la phộc la, bát la phộc la, vĩ thuật đễ, hồng hồng phán phán tra tra, hồng tra, sa phộc hạ.

OṂ AMṚTA VARE VARA VARA PRAVARA VIŚUDDHE HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ.

Quán Đỉnh Kết Khế Ân Chân Ngôn: Phạn văn là A Tỳ Sái Kế Mẫu Nại La Đà La Ni Abhiṣekai mudrā dhāraṇī.

Án, mẫu ninh mẫu ninh mẫu ninh, phộc lệ, a tỳ săn giả mính, tát lật ma đát tha khả đá, tát lật ma vĩ ninh dã tỳ sái kế lật mãng hạ ma nhật la, ca phộc giả, mẫu nại la, mẫu đát lý đái, tát lật ma đát tha khả đá, hột lý na dạ, địa sắt sỉ đá, ma nhật lệ sa phộc hạ.

OṂ MUṆI MUṆI MUṆI VARE ABHISIṂCA MĀṂ SARVATATHĀGATA SARVA VIDYĀ ABHIṢEKAIR MAHĀ VAJRA KAVACAMUDRĀ MUDRITEḤ SARVA TATHĀGATA HṚDAYA ADHIṢṬHITA VAJRE.

SVĀHĀ.

Như vậy theo thứ tự, Đức Như Lai liền nói Kim Cương Thập Đại Từ Quán với Đà La Ni xong.

Khi ấy, Đức Thế Tôn như bên đã nói Thập Đại Từ Quán Chư Phật Pháp Giáo với nói Đà La Bi. Đức Như Lai nói đủ gia trì tăng Thánh Lực, phước đức khiến cho tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát với tất cả chúng sinh hữu tình tu nhập, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Chư Phật.

Thế nên, chúng con: Sư Tử Dũng Mãnh với tất cả Bồ Tát tin tưởng sâu xa, thề đều phụng hành.

Vì sao gọi là nhóm mười Đại Sĩ Bồ Tát Thượng Ý ở mười phương đồng được Đức Như Lai ấn khả pháp giáo, tu hành Bồ Tát Đạo?

Tức mỗi mỗi đều đối trước Đức Thế Tôn, hướng về trước đại hội chúng cùng với các chúng Bồ Tát, tự nói pháp giáo tu chứng, quán môn bí mật… đương lai cũng cùng với tất cả Bồ Tát đồng sẽ cứu độ tất cả chúng sinh hữu tình.

Thế nên, vì sao gọi là Bí Mật Kim Cương Thập Đại Sĩ Pháp Quán này?

Bấy giờ, Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai theo thứ tự nói nhóm mười Đại Sĩ Bồ Tát Ma Ha Tát của Thượng Ý Bồ Tát ở phương trên.

Thứ nhất là: Thượng Ý Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Đỏa Bồ Đề Tát Tỏa trong Thế Giới Diệu Lạc Hoan Hỷ ở phương trên sẽ tự nói bày, đối trước Đức Như Lai khiến cho tất cả các Bồ Tát ở đương lai, tu nhập vào Bồ Đề Thánh Tính Thánh Trí, chứng Như Lai Kim Cương Tam Mật Tam Ma Địa, soi thấy tự tính, nhập vào Vô Động Niết Bàn Vô Tính Quán.

Thượng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát liền nhập vào Nhất Thiết Như Lai Tự Tại Pháp Giới Tam Ma Địa Sarva tathāgateśvara dharma dhātu samādhi. Bồ Tát dùng con mắt Thánh Trí của mình, quán chiếu Ý Thức Giới Xứ, nhập vào Niết Bàn Vô Tự Tính Quán Pháp Giới Kim Cương Tam Ma Địa.

Bồ Tát Thượng Ý tự thấy tính ý sinh thân trong thân, ở trong mỗi một lỗ chân lông, ra vào thần dụng tự tại Thánh lực, vận thông, chứng sâu xa pháp giới tam muội Dharma dhātu samaya chẳng thể nghĩ bàn. Dùng Thánh trí trí biết tất cả Phật Pháp ba đời. Pháp chẳng thể nói, pháp có thể nói.

Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát nhiều như số bụi nhỏ trong Cõi Phật tu hành, dạy đạo, hóa độ thương sinh trăm họ, mọi người, hành Bồ Tát Hạnh Bodhisatva caryā thường chẳng ngưng nghỉ, khiến cho tất cả chúng sinh mau nhập vào Niết Bàn vô tính quán pháp giới Thánh Lực Bồ Đề Tất Địa, thành tựu Bồ Tát, khiến cho tất cả chúng sinh trước tiên tu chứng, nhập vào mười loại thành tựu Kim Cương Bồ Đề Tam Mật Đại Pháp Quán.

Thế nào gọi là mười loại Kim Cương Bồ Đề Tam Mật Đại Pháp?

1. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Đà La Ni Bí Pháp Quang Minh, thành tựu Bồ Đề Kim Cương Thánh Tính Tam Mật hành Đạo Đại Pháp.

2. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn các căn, trí tuệ viên mãn, thành tựu Bồ Đề Thần Cảnh Thông, chứng nhập vào trăm ngàn tam muội, Phật Tam Ma Địa Đại Pháp.

3. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn thần lực, thành tựu nuôi lớn trăm ngàn Kim Cương Tam Muội Gia Vajra samaya, thành tựu Thánh Lực Bồ Đề Viên Mãn Cố Đại Pháp.

4. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Hư Không Môn Gagana mukhe, nhập vào Nhất Thiết Như Lai Tam Ma Thánh Tính Địa, vận động thành tựu bồ đề, thần thông tự tại du lịch mười phương, nhập vào Tịnh Thổ của Phật, thấy Phật Báo Thân Đại Pháp.

5. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Phật Tam Ma Địa Môn Buddhasamādhi mukhe, Thánh Tính thông đạt đầy đủ, thành tựu Bồ Đề, các Ba La Mật Môn Pāramitā mukhe bí mật thù thắng, nhập vào Nhất Thiết Tính Trí Bồ Đề Vô Ngại Viên Mãn Đại Pháp.

6. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Thánh trí thần thông, tu nhập vào lý thú của hạnh màu nhiệm, công đức của thể tính, gom chứa Thánh Đạo, thành tựu Bồ Đề, nhập vào nhất thiết Chư Phật pháp tạng đại pháp.

7. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn trí tuệ biện tài, phương tiện diễn nói, thành tựu Như Lai Thánh Tính Hạnh Bồ Đề, nhập sâu vào Nhất Thiết Pháp Nghĩa Đại Pháp bí mật.

8. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Đại Từ Thánh Hạnh thâm sâu của Chư Phật, thành tựu Bồ Đề Phật Hạnh Viên Mãn Đại Pháp.

9. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Thánh Trí Kim Cương Tính Đạo của Như Lai, được Phật quán đỉnh, nhập vào địa vị của Pháp Vương, thành tựu Bồ Đề, Chư Phật Trí Thân Đại Minh Biến Chiếu Kim Cương Bồ Đề, thành tựu Pháp Thân khiến được Giải Thoát Đại Pháp.

10. Hay khiến cho chứng nhập vào trăm ngàn Chư Phật Giải Thoát Địa Sarvabuddha vimukti bhūmi, thành tựu Bồ Đề, được tất cả Như Lai.

Mau chóng nhập vào trăm ngàn Bí Mật Kim Cương Bồ Đề Phật Tính Hải Tạng chân như Tam Ma Địa Guhya vajra bodhi buddhatā sāgara garbha tathatā samādhi, đầy đủ tất cả pháp, Như Lai Thánh Tính Vô Tận Kim Cương Trí Bồ Đề Nhất Thiết Đại Pháp Thế nên, Thượng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát Đỏa trước tiên tự hay nói Vọng Tưởng Vikalpa của Thức Vijñāna.

Thánh Tính Tính sinh ra Trí Vô Lậu rồi chặt đứt phiền não của Như Lai: Hai nghĩa hòa hợp thành thục Kim Cương Thánh Trí Bồ Đề Đại Pháp. Tức đây gọi là Bồ Tát tu học Như Lai Thánh Tính Giải Hạnh Tề Hạnh, liền hay chứng được mười loại Đại Pháp Bồ Đề của tự thể pháp giới, sau đó tu nhập, chứng được vô động Niết Bàn vô tính quán.

Thế nào là phương tiện Upāya để được chứng nhập vào vô tính quán?

Bồ Tát trước tiên tu ngay tâm, quán chiếu bản tính lặng yên trong sạch, tỏ ngộ nhập vào Diệt Tận Định Nirodha samāpatti, được tâm thức tính chứng thấy thanh tịnh, chỉ trong, chỉ sạch, chứng thấy Thánh tính, tự tính như như, một con đường lặng yên trong sạch, tỏ ngộ đạt cội nguồn, phản chiếu thấy yên tịnh, chỉ soi chiếu, mỗi mỗi chỉ trong suốt, chỉ trong sạch, chỉ yên lặng, chỉ Thánh… tức đây gọi là Bồ Tát được nhập vào Vô Động Niết Bàn Vô Tính Quán.

Nếu có tất cả Bồ Tát y theo Thượng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát Đỏa này, tu học pháp môn này, liền được mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề của Phật.

Cho nên, Thượng Ý Bồ Tát Ma Ha Tát vì chúng sinh hữu tình trong tất cả pháp giới ba đời, hiển nói diễn ra Chư Phật Bí Mật Kim Cương Bồ Tát Thành Tựu Vô Động Niết Bàn Vô Tính Quán… khiến cho đời lâu xa ở vị lai: Tất cả Bồ Tát, tất cả chúng sinh tu chứng, mau chóng nhập vào Như Lai Thánh Tính Tam Ma Địa Vô Tính Quán, được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề của Phật.

Khi ấy, Đức Như Lai liền theo thứ tự mà khiến Trì Thế Bồ Tát tự nói tu tập quán hạnh môn.

Thứ Hai là: Trì Thế Bồ Tát Ma Ha Tát Đỏa Bồ Đề Tát Tỏa trong Thế Giới Kim Cương Giới Địa Thiên ở phương dưới, tự đối trước Đức Như Lai, liền vì tất cả Bồ Tát hiện tại nói bày bí mật pháp quán, cũng khiến cho tất cả Bồ Tát với tất cả chúng sinh ở đương lai.

Tu nhập vào Tát Bà Nhã Hải Tam Ma Địa Sarva jñā sāgarasamādhi: Nhất Thiết Trí Hải Tam Ma Địa, học Chư Phật Kim Cương Bồ Đề Nhất Thiết Bí Mật Thậm Thâm Pháp Nhẫn Ba La Mật Đa Thật Tính Quán.

***