Kinh Đại thừa
Bộ Đại Tập
PHẬT THUYẾT
KINH ĐẠI THỪA DUYÊN SANH
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
Chính tôi được nghe!
Một thời kia Đức Thế Tôn ở trong núi Kỳ Xà Quật thuộc thành Vương Xá, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị Đại Tỳ Kheo và các vị Đại Bồ Tát.
Bấy giờ, Cụ Thọ Xá Lỵ Tử đến chốn kinh hành của Đại Bồ Tát Di Lặc. Đến nơi, hai vị cùng hỏi thăm nhau và cùng ngồi trên bàn đá rộng lớn.
Liền đó, Cụ Thọ Xá Lỵ Tử hướng vào Đại Bồ Tát Di Lặc nói rằng: Bồ Tát Di Lặc! Hôm nay Đức Thế Tôn quán sát thấy những lúa nếp nơi đồng nội.
Ngài bảo các vị Tỳ Kheo: Các vị Tỳ Kheo nếu ai thấy được nhân duyên, tức là người ấy thấy được pháp, nếu ai thấy được pháp, tức là người ấy thấy được Phật. Ngài nói những lời ấy rồi, Ngài lặng thinh không nói gì nữa.
Bồ Tát Di Lặc! Đấng Thiện Thệ cớ sao lại nói ra những lời ấy?
Việc ấy thế nào?
Gì là nhân duyên?
Gì là pháp?
Gì là Phật?
Thế nào là thấy được nhân duyên, tức là thấy được pháp?
Thế nào là thấy được pháp, tức là thấy được Phật?
Cụ Thọ Xá Lỵ Tử nói lời ấy rồi, Đại Bồ Tát Di Lặc đáp lại Cụ Thọ Xá Lỵ Tử rằng:
Nay Phật, Pháp Vương, Chánh Biến Tri bảo các vị Tỳ Kheo: Nếu ai thấy được nhân duyên, tức là người ấy thấy được pháp, nếu ai thấy được pháp tức là người ấy thấy được Phật, vậy trong này thời cái gì là nhân duyên?
Nói là nhân duyên, thời: Đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh.
Như: Vô minh duyên cho hành, hành duyên cho thức, thức duyên cho danh sắc, danh sắc duyên cho lục nhập, lục nhập duyên cho xúc, xúc duyên cho thụ, thụ duyên cho ái, ái duyên cho thủ, thủ duyên cho hữu, hữu duyên cho sinh, sinh duyên cho lão tử, sầu, thán, khổ, ưu, não, sinh khởi được. Như thế, là chỉ sinh khởi sự kết tụ những khổ đau lớn lao, thuần nhất, cùng cực vậy.
Cũng trong này, vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thụ diệt, thụ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên lão tử, sầu, thán, khổ, ưu, não cũng diệt được.
Như thế là chỉ diệt sự kết tụ những khổ đau lớn lao, thuần nhất, cùng cực là được. Đó là Đức Thế Tôn nói ra pháp nhân duyên vậy.
Gì là pháp?
Là Tám Thánh Đạo: Chính kiến thấy rõ lý chính xác, chính tư duy suy nghĩ chân chính, chính ngữ nói năng chân chính, chính nghiệp hành động chân chính, chính mệnh mưu sinh chân chính, chính tinh tiến cố gắng trong chân chính, chính niệm ghi nhớ rõ lẽ chân chính, và chính định chú định vào chính lý, chính đạo. Thế là Tám Thánh Đạo quả và Niết Bàn, Đức Thế Tôn nói ra, gọi đấy là pháp.
Gì là Phật?
Là bậc biết hết thảy pháp, gọi là Phật. Tuệ Nhãn con mắt trí tuệ, pháp thân pháp tính thân của bậc kia trông thấy hết thảy pháp, tạo tác nhân Bồ Đề và đạt tới địa vị học, vô học pháp.
Thế nào là thấy được nhân duyên?
Như Đức Phật nói: Nếu ai thấy được những pháp của nhân duyên là thấy được nhân duyên.
Những pháp ấy là: Thường, thường còn không sinh diệt, vô thọ không còn có hình sắc, thọ mệnh liên tục, ly thọ xa lìa cả lời nói về thọ mệnh vắn hay dài, như thực tính tính thuộc chân không, như thực, vô thác mậu tính, tính chân không, như thực, phổ biến không chút sai lầm thiên lệch, vô sinh tính như thực nên không còn sinh diệt.
Vô khởi không phát khởi, vô tác không tạo tác, vô vi không tác vi, vô chướng ngại không còn bị ngăn cản, vô cảnh giới không còn chia ranh giới, tịch tĩnh thường hằng vắng lặng, vô úy không có sợ hãi, vô xâm đoạt không bị xâm đoạt và bất tịch tĩnh tướng không còn có cả hình tướng của tịch tĩnh vắng lặng.
Nếu ai thấy được pháp của nhân duyên như thế rồi, đối với pháp ấy cũng phải thấy là: Thường, vô thọ, ly thọ, như thực tính, vô thác mậu tính, vô sinh, vô khởi, vô tác, vô vi, vô chướng ngại, vô cảnh giới, tịch tĩnh, vô úy, vô xâm đoạt, bất tịch tĩnh tướng. Được chính trí ngộ được thắng pháp, dùng vô thượng pháp thân mà thấy Phật.
Hỏi: Tại sao gọi là nhân duyên?
Đáp: Có nhân, có duyên gọi là nhân duyên, không phải là không có nhân, không có duyên, nên gọi là nhân duyên pháp.
Đức Thế Tôn nói qua về hành tướng của nhân duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như Lai xuất hiện ra đời hay không xuất hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp Sự vật vẫn thường trụ.
Cho đến pháp tính nhân duyên tính, pháp trụ tính, tính trong pháp của nhân duyên vẫn thường trụ, pháp định tính, tính của mọi pháp quyết định như thế, dữ nhân duyên tương ứng tính, tính cùng nhân duyên ứng hợp nhau, chân như tính, tính của mọi pháp là như thực.
Vô thác mậu tính, tính chân như phổ biến không sai lầm, thiên lệch, vô biến dị tính, tính chân như không thay đổi sai khác, chân thực tính, tính chân thực, thực tế tính, tính thực tế, bất hư vọng tính, tính không giả dối, bất điên đảo tính, tính không xáo lộn v.v… đó là Đức Thế Tôn nói những lời nói như thế. Nhân duyên pháp này, vì hai thứ mà nó sinh khởi được.
Hai thứ ấy là gì?
Là: nhân tương ứng và duyên tương ứng.
Nhân duyên kia lại có hai thứ: Ngoại nhân duyên và nội nhân duyên.
Trong này gì là ngoại nhân duyên pháp, nhân tương ứng?
Từ hạt giống sinh ra mầm, từ mầm sinh ra lá, từ lá sinh ra thân cây, từ thân cây sinh ra đốt, từ đốt sinh ra nụ, từ nụ sinh ra hoa, từ hoa sinh ra trái.
Nếu không có hạt giống, mầm tức không sinh, cho đến nếu không có hoa, trái cũng không sinh được. Có hạt giống, mầm mới sinh được, như thế thời có hoa, trái cũng mới sinh được.
Song, hạt giống kia cũng không khởi ra ý niệm: Ta sinh ra mầm.
Mầm cũng không khởi ra ý niệm: Ta từ hạt giống sinh ra.
Cho đến hoa cũng không khởi ra ý niệm: Ta sinh ra trái.
Trái cũng không khởi ra ý niệm: Ta từ hoa sinh ra. Tuy thế, vì có hạt giống mà mầm được sinh ra và cũng như thế, vì có hoa mà trái liền được thành tựu.
Nên quán sát cái nghĩa ngoại nhân duyên pháp, nhân tương ứng như thế!
Nên quán sát ngoại nhân duyên pháp, duyên tương ứng như thế nào?
Cần sáu giới, giới phận hòa hợp.
Gì là sáu giới hòa hợp?
Là: địa giới đất, thủy giới nước, hỏa giới lửa, phong giới gió, không giới, không gian và thời, thời gian. Những giới phận ấy hòa hợp với nhau, thời ngoại nhân duyên pháp sinh khởi được.
Nên quán sát cái nghĩa ngoại nhân duyên pháp, duyên tướng ứng như thế!
Nói về địa giới là thứ thường giữ gìn cho hạt giống. Thủy giới là thứ thường nhuần thấm cho hạt giống. Hỏa giới là thứ thường giúp hơi ấm cho hạt giống. Phong giới là thứ thường giúp sự dao động cho hạt giống.
Không giới là thứ không làm chướng ngại cho hạt giống. Thời, thời có thể làm cho hạt giống biến đổi. Nếu không có những duyên ấy, hạt giống không thể nào sinh ra mầm được.
Nếu ngoài, địa giới hoàn toàn đầy đủ, cho đến thủy, hỏa, phong, không, thời giới… cũng hoàn toàn đầy đủ như thế, lại hết thảy hòa hợp, thời khi hạt giống diệt rồi, mầm sinh ra được.
Và, trong này địa giới cũng không khởi ra ý niệm: Ta thường giữ gìn hạt giống.
Cùng như thế, thủy giới cũng không khởi ra ý niệm: Ta thường nhuần thấm cho hạt giống.
Hỏa giới cũng không khởi ra ý niệm: Ta thường giúp hơi ấm cho hạt giống, phong giới cũng không khởi ra ý niệm. Ta thường giúp sự dao động cho hạt giống, không giới cũng không khởi ra ý niệm. Ta thường không làm chướng ngại cho hạt giống, thời cũng không khởi ra ý niệm. Ta thường làm cho hạt giống biến đổi.
Hạt giống cũng không khởi ra ý niệm. Ta thường sinh ra mầm, mầm cũng không khởi ra ý niệm. Ta nay từ những duyên ấy mà sinh ra. Tuy thế, có những duyên ấy, khi hạt giống diệt rồi, mầm liền sinh ra được. Và, cũng như thế, khi có hoa, trái liền sinh ra được.
Thế là, mầm kia cũng không phải tự mình tạo tác, cũng không phải là cái khác tạo tác, không phải tự nó mầm cùng cái khác tạo tác, không phải là tự tại tạo tác, cũng không phải là thời biến đổi.
Không phải là tự tính sinh ra, cũng không phải là không có nhân mà sinh ra được. Dù vậy, địa, thủy, hỏa, phong, không, thời giới… hòa hợp, khi hạt giống diệt rồi, mầm được sinh ra.
Nên quán sát cái nghĩa ngoại nhân duyên pháp, duyên tương ứng như thế. Nên đem năm thứ quán pháp, quán ngoại nhân duyên pháp kia.
Năm thứ ấy là gì?
Là: Không thường còn bất thường, không dứt đoạn bất đoạn, không chuyển dời bất di, từ nhân nhỏ sinh quả lớn và cùng tương tự với nhân cũ kia.
Thế nào là không thường còn?
Vì, mầm cùng hạt giống, hai đàng đều khác biệt nhau, mầm kia không phải là hạt giống, không phải khi hạt giống hoại rồi, mầm mới sinh ra, cũng không phải là hạt giống không diệt, mà mầm sinh khởi được, khi hạt giống hoại đi, mầm sinh ra được, nên là không thường còn.
Thế nào là không dứt đoạn?
Không phải là hạt giống của quá khứ hoại đi, mà sinh ra mầm, cùng không phải là hạt giống không diệt, mầm sinh khởi được, hạt giống cũng hoại, đương trong khi ấy, nó chỉ như cán cân cao, thấp một chút, mà mầm sinh ra được, nên là không dứt đoạn.
Thế nào là không chuyển dời?
Vì, mầm và hạt giống khác nhau, mầm không phải là hạt giống, nên là không chuyển dời.
Thế nào là nhân nhỏ sinh quả lớn?
Từ hạt giống nhỏ, sinh ra quả lớn, nên gọi là từ nhân nhỏ, sinh ra quả lớn.
Thế nào là cùng tương tự với nhân cũ kia?
Vì, như hạt giống khi mới trồng, sinh ra quả kia, nên gọi là cùng tương tự với nhân cũ kia. Thế là đem năm thứ quán pháp, quán ngoại nhân duyên pháp. Cũng như thế, nội nhân duyên pháp cũng do hai thứ mà được sinh khởi.
Hai thứ ấy là gì?
Là: Nhân tương ứng và duyên tương ứng.
Thế nào mà có nghĩa gọi là nội nhân duyên pháp, nhân tương ứng?
Nghĩa là, trước từ vô minh duyên cho hành, cho đến sinh duyên cho lão tử. Nếu vô minh không sinh, hành cũng không có, cho đến nếu không có sinh, lão tử cũng không có. Như thế, có vô minh nên hành mới sinh ra được, cho đến có sinh nên lão tử mới có được.
Song, vô minh cũng không khởi ra ý niệm. Ta sinh ra hành, hành cũng không khởi ra ý niệm. Ta từ nơi vô minh mà sinh ra, cho đến sinh cũng không khởi ra ý niệm. Ta sinh ra lão tử, lão tử cũng không khởi ra ý niệm. Ta từ nơi sinh mà có.
Tuy thế, vì có vô minh, hành mới sinh được. Cũng như thế, vì có sinh, lão tử mới có được. Vì vậy, nên quán sát nghĩa nội nhân duyên pháp, nhân tương ứng như thế.
Nên quán sát sự của nội nhân duyên pháp, duyên tương ứng thế nào?
Cần sáu giới hòa hợp.
Sáu giới hòa hợp là gì?
Là: Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới hòa hợp. Nên quán sát sự của nội nhân duyên pháp, duyên tương ứng như thế.
Gì là hành tướng của sáu giới, trong nội nhân duyên pháp?
Thứ làm cho trong thân này bền chắc, gọi là địa giới, thứ làm cho thân này tụ tập lại, gọi là thủy giới, thứ làm tiêu hóa những thức ăn, uống trong thân này, gọi là hỏa giới, thứ làm cho hơi thở ra, vào trong, ngoài trong thân này, gọi là phong giới, chứ làm cho thân này rỗng thông.
Gọi là không giới năm thức của thân tương ứng hợp nhau cùng hữu lậu ý thức, cũng như bó cây lau, thành tựu được cái mầm danh sắc tâm, thân của thân này, gọi là thức giới.
Nếu không có những duyên ấy, thời không sinh ra thân được. Nếu nội địa giới hoàn toàn đầy đủ, và cùng như thế, cho đến thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng hoàn toàn đầy đủ, lại hết thảy hòa hợp với nhau, thời thân liền sinh ra được.
Song, địa giới kia cũng không khởi ra ý niệm:
Ta thường làm những sự bền chắc trong thân, thủy giới cũng không khởi ra ý niệm.
Ta thường vì thân làm những sự tụ tập, hỏa giới cũng không khởi ra ý niệm.
Ta thường làm tiêu hóa những thức ăn, uống trong thân, phong giới cũng không khởi ra ý niệm.
Ta thường làm cho hơi thở ra, vào trong, ngoài thân, không giới cũng không khởi ra ý niệm.
Ta thường làm những sự rỗng thông trong thân, thức giới cũng không khởi ra ý niệm.
Ta thường làm thành tựu cái mầm danh sắc của thân này, thân cũng không khởi ra ý niệm.
Ta từ nơi mọi duyên này mà sinh ra. Tuy thế, có thời của các duyên này, thân liền sinh ra được.
Nhưng, địa giới kia cũng không phải là ta, không phải là chúng sanh, không phải là mệnh giả, không phải là sinh giả, không phải là nho đồng, không phải là tác giả, không phải là con trai, không phải là con gái, không phải giống hoàng môn, không phải tự tại, không phải ngã sở, cũng không phải là những thứ gì khác.
Cho đến, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới, thức giới cũng không phải là ta, không phải là chúng sanh, không phải là mệnh giả, không phải là sinh giả, không phải là Nho đồng, không phải là tác giả.
Không phải là con trai, không phải là con gái, không phải là giống Hoàng môn, không phải tự tại, không phải ngã sở, cũng không phải là những thứ gì khác như thế.
Gì là vô minh?
Đối với sáu giới này khởi ra nhất tưởng, tưởng là nhất thể, nhất hợp tưởng, tưởng là thực thể do các pháp hợp thành, thường tưởng, tưởng là thường còn vĩnh viễn, kiên lao tưởng, tưởng là bền chắc, bất hoại tưởng, tưởng là không hoại diệt.
An lạc tưởng, tưởng là được an vui, tưởng là chúng sinh, mệnh, sinh giả, dưỡng dục, sĩ phu, nhân người, nho đồng, tác giả, ngã, ngã sở v.v… cùng nhiều thứ vô tri không biết khác, thế là vô minh.
Có vô minh, đối với các cảnh giới khởi ra: Tham, sân, si.
Cái đối với cái cảnh giới khởi ra: Tham, sân, si ấy, ấy là vô minh duyên cho hành. Cái mà đối với mọi sự thường phân biệt rõ ràng, gọi là thức, cùng với thức đồng sinh bốn uẩn, sắc, thụ, tưởng, hành, gọi là danh sắc, y vào các căn của danh sắc, gọi là lục nhập, ba pháp hòa hợp, căn, trần, thức gọi là xúc, biết cảm thụ sự xúc chạm ấy, gọi là thụ, tham đắm vào sự cảm thụ ấy, gọi là ái.
Tăng trưởng sự tham ái ấy, gọi là thủ, từ chỗ chấp thủ ấy sinh ra năng sinh nghiệp, chủ động trong hành động sinh danh sắc khác, gọi là hữu, mà từ nhân kia nghiệp sinh ra năm uẩn danh sắc, gọi là sinh, sinh ra rồi năm uẩn thành thục, gọi là lão già, lão rồi năm uẩn diệt hoại, gọi là tử chết, trong khi sắp mất, nội tâm đủ cả tham đắm và nhiệt não, gọi là sầu buồn rầu.
Từ chỗ sầu bi ấy, sinh ra những lời nói, gọi là thán than thở, thân của năm thức chịu khổ, gọi là khổ, tác ý khởi ra ý tưởng, ý thức chịu mọi sự khổ, gọi là ưu lo, đủ những thứ trên như thế cùng những phiền não tùy thuộc, gọi là não.
Đen tối nhiều nên gọi là vô minh, tạo tác, nên gọi là chư hành, mọi hành động, phân biệt rõ ràng, nên gọi là thức, nương dựa nhau, nên gọi là danh sắc, làm cửa sinh khởi, nên gọi là lục nhập, xúc chạm nên gọi là xúc, cảm thụ nên gọi là thụ, khát khao nên gọi là ái, chấp lấy, nên gọi là thủ.
Sinh khởi sự có thân sau này, hậu hữu thân nên gọi là hữu, sinh ra năm uẩn nên gọi là sinh, năm uẩn thành thục nên gọi là lão, năm uẩn diệt hoại, nên gọi là tử. Buồn rầu nên gọi là sầu, than thở nên gọi là thán. Não thân gọi là khổ, não tâm gọi là ưu, phiền não nên gọi là não. Hơn nữa, không rõ chân tính, điên đảo không biết, gọi là vô minh.
Vì có vô minh như thế, thành ra ba thứ hành, hành động: Phúc hành làm phúc, tội hành làm tội và bất động hành làm trong sự không dao động. Từ nơi phúc hành làm phúc sinh ra phúc hành thức nghiệp thức trong việc làm phúc, ấy là vô minh duyên cho hành. Từ nơi tội hành làm tội, sinh ra tội hành thức nghiệp thức trong việc làm tội, ấy thời gọi là hành duyên cho thức.
Từ nơi bất động hành làm trong sự không dao động, sinh ra bất động hành thức nghiệp thức trong việc làm không dao động, ấy thời gọi là thức duyên cho danh sắc. Vì sắc tăng trưởng, từ trong cửa lục nhập thành sự việc, ấy là danh sắc duyên cho lục nhập.
Từ lục nhập mà sinh ra sáu thứ tụ tập, xúc chạm, ấy là lục nhập duyên cho xúc. Từ nơi xúc chạm mà sinh ra cái kia, cái kia cảm thụ nhau, ấy thời gọi là xúc duyên cho thụ. Phân biệt rõ ràng sự cảm thụ rồi, mà sinh ra nhiễm ái, đam chước, ấy thời gọi là thụ duyên cho ái.
Biết rồi mà sinh nhiễm ái, đam chước, không muốn xa lìa sắc đẹp và ở nơi yên vui mà sinh ra ý nguyện hoan lạc, ấy là ái duyên cho thủ. Sinh ra ý nguyện hoan lạc rồi, từ nơi thân, miệng, ý tạo ra hậu hữu nghiệp, nghiệp của sự có thân sau này, ấy là thủ duyên cho hữu.
Từ nghiệp của hữu kia sẽ sinh ra năm uẩn, ấy là hữu duyên cho sinh. Sinh rồi, năm uẩn kia thành thục và diệt hoại, ấy thời gọi là sinh duyên cho lão tử.
Thế nên mười hai chi pháp nhân duyên kia, làm nhân lẫn nhau, làm duyên lẫn nhau, không phải thường, không phải vô thường, không phải hữu vi, có sự tạo tác, không phải vô vi không có sự tác vi, không phải là không có nhân, không phải là không có duyên.
Không phải cảm thụ hữu nghiệp, không phải là pháp nhân duyên hết, không phải là pháp hoại, không phải là pháp diệt, từ vô thỉ đến nay, nó vẫn như dòng nước chảy dốc, không có đoạn tuyệt.
Tuy thế, mười hai chi pháp nhân duyên ấy, làm nhân lẫn nhau, làm duyên lẫn nhau, không phải thường, không phải vô thường, không phải hữu vi, không phải vô vi, không phải là không có nhân, không phải là không có duyên, không phải cảm thụ hữu nghiệp.
Không phải là pháp hết, không phải là pháp hoại, không phải là pháp diệt, từ vô thỉ đến nay, nó vẫn như dòng nước chảy dốc, không có đoạn tuyệt và nó có bốn chi thường nhiếp thủ mười hai nhân duyên pháp.
Bốn chi ấy là gì?
Là: vô minh, ái, nghiệp, thức. Thức, lấy chủng tử tính làm nhân. Nghiệp lấy điền tính làm nhân. Vô minh và ái lấy phiền não tính làm nhân. Trong này, nghiệp và phiền não, sinh ra thức của chủng tử hạt giống.
Nghiệp thời làm mảnh ruộng cho thức của chủng tử, ái thời nhuần thấm cho thức của chủng tử, vô minh thời sinh nở cho thức của chủng tử. Nếu không có những duyên ấy, thức của chủng tử không thể thành được.
Song, nghiệp kia cũng không khởi ra ý niệm. Ta nay làm mảnh ruộng cho thức của chủng tử, ái cũng không khởi ra ý niệm. Ta nay làm nhuần thấm cho thức của chủng tử.
Vô minh cũng không khởi ra ý niệm: Ta nay làm sinh nở cho thức của chủng tử.
Thức của chủng tử kia cũng không khởi ra ý niệm: Ta nay từ mọi duyên ấy sinh ra. Tuy thế, thức của chủng tử, y vào nơi ruộng nghiệp và ái kia nhuần thấm, phẩn vô minh sinh nở, vào trong thai mẹ sinh ra mầm danh sắc.
Mầm danh sắc kia cũng không phải tự tác mình làm ra, cũng không phải tha tác cái khác làm ra, không phải mình và cái khác đều làm ra, không phải tự tại hóa ra, cũng không phải thời biến. Không phải tự tính sinh, không phải là tác giả tạm bợ dả tác giả, cũng không phải là không có nhân mà sinh.
Tuy thế, khi phụ mẫu hòa hợp cùng khi các duyên khác hòa hợp, pháp nhân duyên: Vô ngã không có cái ta, vô ngã, ngã sở không có cái ta, cái của ta cũng như hư không. Các huyễn pháp kia, nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, y nơi sinh của nhân duyên kia, vào trong thai mẹ, thời thành tựu được cái thức, giữ lấy thai mẹ, là cái mầm danh sắc. Như khi sinh ra nhãn thức, nếu đủ năm duyên thời sinh ra được.
Năm duyên ấy là gì?
Là: Y vào mắt nhãn, hình sắc, ánh sáng minh, không gian không và y vào tác ý khởi ra ý tưởng, nên nhãn thức sinh ra được.
Trong này, mắt thời làm nơi nương tựa cho nhãn thức, hình sắc thời làm cảnh cho nhãn thức, ánh sáng thời làm việc hiển hiện, không gian thời làm việc không ngăn che, tác ý thời làm việc tư tưởng.
Nếu không có các duyên ấy, nhãn thức không sinh được. Nếu khi bên trong sự tiếp nhập của mắt, hoàn toàn đầy đủ, cho đến hình sắc, ánh sáng, không gian, tác ý, cũng hoàn toàn đầy đủ như thế, hết thảy hòa hợp, nhãn thức sinh ra được.
Song, mắt kia cũng không khởi ra ý niệm. Ta nay là chỗ nương tựa của nhãn thức, hình sắc cũng không khởi ra ý niệm.
Ta nay làm cảnh cho nhãn thức, ánh sáng cũng không khởi ra ý niệm: Ta nay làm việc hiển hiện cho nhãn thức.
Không gian cũng không khởi ra ý niệm. Ta nay làm việc không ngăn che cho nhãn thức, tác ý cũng không khởi ra ý niệm.
Ta nay làm chỗ tư tưởng cho nhãn thức, nhãn thức kia cũng không khởi ra ý niệm: Ta là từ các duyên ấy mà có. Tuy thế, có các duyên ấy nhãn thức mới sinh ra được. Cho đến các căn khác, tùy từng loại của nó sẽ biết được nó.
Như thế, không có chút pháp nhân, duyên nào từ đời này di chuyển đến đời khác, dù vậy, nhân và các duyên, được hoàn toàn đầy đủ, thời nghiệp quả kết quả của nghiệp thức cũng hiện.
Ví như trong tấm gương sáng hiện ra diện tượng, tuy diện tượng kia không dời gương, nhân và các duyên, được hoàn toàn đầy đủ, nên diện tượng cũng hiện.
Như thế, không có chút ít vật gì từ nơi này diệt, sinh sang nơi khác, nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, nên nghiệp quả cũng hiện.
Ví như vầng Trăng, vận hành trên đây chừng bốn vạn hai nghìn do tuần, thế mà hình tượng vầng trăng kia hiện trong cái bát nhỏ có nước, vậy vầng Trăng kia cũng không phải từ nơi kia di chuyển đến cái bát có nước này.
Tuy thế, nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, nên vầng Trăng cũng hiện. Như thế, không có chút ít vật gì từ nơi này diệt, sinh sang nơi khác, mà nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, nên nghiệp quả cũng hiện.
Ví như lửa, nhân và các duyên nếu không đầy đủ, thời không cháy được, khi nhân và các duyên đầy đủ, mới có thể cháy được.
Như thế, pháp vô ngã, vô ngã ngã sở cũng như hư không, y vào huyễn pháp kia nhân và các duyên hoàn toàn đầy đủ, y nơi sở sinh, vào trong thai mẹ, thời thành tựu được cái thức của chủng tử, nghiệp và phiền não sinh ra mầm danh sắc.
Vậy nên, cần quán sát về sự: Nội nhân duyên pháp, duyên tương ứng như thế. Nên đem năm thứ quán pháp, quán sát nội nhân duyên pháp.
Năm thứ ấy là gì?
Là: Không thường còn bất thường, không dứt đoạn bất đoạn, không chuyển dời bất di, từ nhân nhỏ sinh quả lớn và cùng tương tự với nhân cũ kia.
Thế nào là không thường còn?
Nghĩa là năm uẩn tối hậu của báo thân kia diệt đi, cùng với năm uẩn đang chịu phần sinh ra kia, hai đàng đều khác nhau, vì năm uẩn tối hậu diệt đi, không phải là năm uẩn đang chịu phần sinh ra.
Báo thân tối hậu kia diệt, năm uẩn cũng diệt, năm uẩn đang chịu phần sinh ra cũng hiện ra được nên gọi là không thường còn.
Thế nào là không dứt đọan?
Không phải y vào khi diệt hoại của năm uẩn tối hậu diệt, mà năm uẩn đang chịu phần sinh ra, có được. Và cũng không phải là không diệt, báo thân tối hậu kia diệt, năm uẩn cũng diệt, đương trong khi ấy, năm uẩn đang chịu phần sinh ra, nó chỉ như cán cân, cao, thấp một chút, mà sinh ra được, nên gọi là không dứt đoạn.
Thế nào là không chuyển dời?
Vì, các loài Hữu Tình, từ nơi không phải là chúng đồng phận, sinh ra nơi chúng đồng phận, nên gọi là không chuyển dời.
Thế nào là từ nhân nhỏ, sinh quả lớn?
Làm nghiệp nhỏ, cảm quả dị thục lớn, nên từ nhân nhỏ mà sinh quả lớn. Như làm nhân kia, cảm được quả kia, cùng tương tự với nhân kia, nên gọi là tương tự. Bởi thế, nên đem năm thứ quán pháp, quán nhân duyên pháp.
Tôn Giả Xá Lỵ Tử! Nếu có người dùng chính trí, quán sát những pháp của nhân duyên, mà đức Như Lai nói ra, như vô thọ, ly thọ, như thực tính, vô thác mậu tính, vô sinh, vô khởi, vô tác, vô vi, vô chướng ngại, vô cảnh giới, tịch tĩnh, vô úy, vô xâm đọat, vô tận, bất tịch tĩnh tướng, bất hữu không có sự chân thực.
Hư dả dối, cuồng lừa gạt không thực, vô kiên thực không bền, thực, như bệnh như người đau, như ung như người có nhọt, như tiễn như bị tên bắn, quá thất lỗi lầm, vô thường không thường còn, khổ, không, vô ngã không có ta, vậy: Ta trong đời quá khứ có sinh hay là không sinh, mà không phân biệt được bờ cõi của thuở quá khứ?
Trong đời vị lai sinh ở chốn nào, mà cũng không phân biệt được bờ cõi của thuở vị lai?
Đây hiện tại là gì?
Đây lại là thế nào, mà làm ra vật gì?
Các loài hữu tình này từ đâu lại?
Từ đây diệt đi sẽ sinh vào chốn nào?
Mà cũng không phân biệt được cái có của hiện tại. Lại diệt những tà kiến, tư tưởng lệch lạc, bất đồng của hàng Sa Môn, Bà La Môn ở thế gian, là ngã kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, nhân kiến, hy hữu kiến, cát tường kiến, khai hợp kiến. Biết được rành rẽ, như cây Đa La, đoạn trừ sạch mọi căn rồi, trong đời mai sau, chứng được pháp vô sinh, vô diệt.
Tôn Giả Xá Lỵ Tử! Nếu có người đầy đủ được vô sinh pháp nhẫn như thế, là người phân biệt rõ ràng được nhân duyên pháp ấy, Như Lai, Ứng Cúng, Chính Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, liền thụ ký cho đạo quả Vô Thượng, Chánh Đẳng, Chánh Giác.
Bấy giờ, Đại Bồ Tát Di Lặc nói lời ấy rồi, Cụ Thọ Xá Lỵ Tử cùng hết thảy những người trong Thế Gian, Thiên, Nhân, A Tu La, Càn Thát Bà v.v… nghe Đại Bồ Tát Di Lặc nói pháp ấy, đều tín thụ phụng hành.
***