Kinh Nguyên thủy

Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Hai - Phẩm Diệu Thân Sinh

PHẬT THUYẾT KINH

ĐẠI THỪA MẬT NGHIÊM

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Địa Bà Ha La, Đời Đường
 

PHẨM HAI

PHẨM DIỆU THÂN SINH
 

TẬP BỐN
 

Bấy giờ, Đại Bồ Tát Phổ Hiền phát ra ánh sáng lớn nhiều màu sắc cùng với các vị Bồ Tát: Bồ Tát Trì Thế, Bồ Tát Trì Tấn, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Thần Thông Vương, Bồ Tát Đắc Đại Thế, Bồ Tát Thánh Giả Nguyệt, Bồ Tát Kim Cang Tề, Bồ Tát Đại Thọ Vương, Bồ Tát Hư Không Tạng cho đến vô lượng Chư Thiên ở cung điện ngọc ma ni các chúng Bồ Tát trong cõi mật nghiêm và những người trong Cõi Phật khác đến nghe pháp.

Nghe thuyết pháp vi diệu ở cõi mật nghiêm được công đức lớn quyết định chuyển y thường ở cõi này không sinh ở cõi khác, tự nhiên đều nhớ nghĩ đến chúng sinh đời vị lai, vì muốn làm lợi ích khắp chúng sinh nên các vị Bồ Tát ấy thưa với Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng: Xin Tôn Giả vì chúng tôi mà giảng nói tất cả thế gian có bao nhiêu hình sắc, do ai làm ra?

Như người thợ gốm nhồi đất dính lại làm nên cái bình, những hình tượng của thế gian cũng làm nên như vậy chăng?

Như người tạo âm nhạc kết hợp các loại dây, ống trúc, gỗ thành âm thanh.

Tất cả thế gian cũng vậy chăng?

Như một vật có ba tự tánh, các vật thế gian đã thành tướng, thể, nếu chưa thành thì đều ở trong một vật chăng?

Cõi Trời Dạ Ma, Trời Đâu Suất Đà, Trời Tha Hóa Tự Tại, Trời Đại Thọ Khẩn Na La, Trời Thiện Hiện, Trời Sắc Cứu Cánh, Phạm Thiên Vương, Cõi Vô Sắc là do tất cả Thiên Chủ đồng tâm hợp lực mà tạo ra chăng?

Chư Phật Bồ Tát ở phương này và phương khác dùng sức biến hóa tạo ra hình tượng của thế gian, chúng sinh ở trong đó khởi lên các mê hoặc, sự mê hoặc này xem như sóng nắng, như bình và vỏ, sự tạo ra công đức, tất cả những người trong thế trụ vào đó, người chẳng tạo các công đức mà bị lệ thuộc vào công đức, cũng chẳng phải đó là công đức mà nương vào công đức, cho nên lần lượt tích tập các công đức.

Như vậy, thế gian có bao nhiêu hình sắc chỉ là mê hoặc mà có chăng?

Hoặc cho rằng Trời Đại Phạm, Phạm Thiên Vương, Cõi Trời Tự Tại đều tự tạo ra. Hoặc cho rằng Tiên Sa Ca Noa Đề Na Kiếp Tỳ La tự tạo ra năng lực. Hoặc có lúc vọng chấp từ tánh tự nhiên, do nghiệp vô minh, ái mà sinh khởi.

Tất cả Chư Thiên, Tiên và những người tu định ở thế gian đều hoài nghi mê hoặc vì không có thể tánh, như huyễn như mộng. Như sóng nắng, như thành Càn Thát Bà đều do vô thi phân biệt chấp có năng, sở. Như rắng hai đầu, như thây chết biết đi. Như người gỗ nhờ máy mà chuyển động.

Như vòng lửa, tóc rũ xuống giữa hư không chăng?

Lúc ấy, Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng dùng kệ đáp:

Các hình sắc thế gian

Không từ đâu sinh ra

Chẳng phải Ca Tỳ La

Nhân Tỳ La tạo ra

Cũng không do phước quả

Bố thí hay cúng dường

Do Phệ đà giảng thuyết

Nghĩa cùng, khác không định

Cũng chẳng phải có không

Hay chấp giữ thế gian

Gọi là A lại da

Thức thứ tám thù thắng

Tất cả đều vận chuyển

Như nhiều bình lăn tròn

Như dầu lẫn trong mè

Trong muối có vị mặn

Cũng như tánh vô thường

Ở khắp trong các sắc

Trầm, xạ đều có hương

Ánh nhật, nguyệt cũng thế

Chẳng năng tác, sở tác

Chẳng hữu cũng chẳng vô

Xa lìa các ngoại đạo

Các kiến chấp đồng dị

Chẳng phải trí tìm cầu

Không thể phân biệt được

Người định tâm không ngại

Chứng được trí bên trong

Nếu lìa A lại da

Tức không có thức khác

Như sóng trong biển cả

Tuy cùng biển không khác

Biển lặng sóng mất đi

Cũng không thể nói một

Ví như người tu định

Trong định tâm thanh tịnh

Người thần thông tự tại

Đạt được các thông tuệ

Quán hành có thể thấy

Chẳng ngoài sự hiểu biết

Tạng thức cũng như vậy

Cùng thức đồng hành chuyển

Phật và các Bồ Tát

Người định thường quán thấy

Tàng thức chấp thế gian

Giống như tìm ngọc báu

Cũng như xe có bánh

Theo gió nghiệp lưu chuyển

Thợ gốm quay bánh xe

Tạo thành vật cần dùng

Tạng thức cùng các giới

Hợp sức lại mới thành

Trong ngoài các thế gian

Bày ra khắp mọi nơi

Ví như các vì sao

Xuất hiện khắp hư không

Nương theo sức của gió

Vận hành luôn không dừng

Như vết chim trong không

Tìm kiếm không thể được

Nhưng chim chẳng lìa không

Mà bay lượn lên xuống

Tạng thức cũng như vậy

Không lìa thân tự, tha

Như biển cả dậy sóng

Hư không trùm vạn vật

Tàng thức cũng như vậy

Che lấp các tập khí

Ví như trăng trong nước

Và như các hoa sen

Không xa lìa khỏi nước

Cũng không dính vào nước.

Tạng thức cũng như vậy

Không bị nhiễm tập khí

Như mắt có con ngươi

Mắt không tự thấy được

Tạng thức ở nơi thân

Thâu giữ các chủng tử

Duy trì mãi thức ấm

Như mây che thế gian

Nghiệp dụng tăng không dừng

Chúng sinh không thể thấy

Thế gian vọng phân biệt

Thấy trâu, bò có sừng

Không rõ sừng chẳng có

Nên nói thỏ không sừng

Phân tích đến hạt bụi

Tìm sừng thật không có

Do nương vào pháp có

Mà thấy có pháp không

Pháp có vốn tự không

Không thấy gì đối đãi

Hoặc pháp có, pháp không

Lần lượt hỗ tương nhau

Trong hai pháp có không

Không nên khởi phân biệt

Nếu xa lìa sở giác

Năng giác tức không sinh

Ví như vòng lửa quay

Che lấp các việc huyễn

Đều do ít kiến chấp

Mà sinh các giác này

Nếu là khỏi nhân đó

Giác này tức không có

Danh tướng hỗ tương nhau

Tập khí không giới hạn

Tất cả các phân biệt

Cùng ý mà sinh khởi

Chứng được cảnh chân thật

Tập khí tâm không sinh

Từ vô thủy đến nay

Mê theo các vọng cảnh

Hý luận và huân tập

Sinh khởi vô số tâm

Năng chấp và sở chấp

Tâm chúng sinh tự tại

Các tướng như bình vỏ

Lìa tâm không thật có

Tất cả chỉ có giác

Nghĩa sở giác đều không

Tánh năng giác, sở giác

Chuyển tự nhiên như vậy

Tập khí tâm ô trược

Phàm phu không thể thấy

Như biển bị gió động

Sóng dậy không thể dừng

Tâm là cảnh gió động

Gió thức sinh cũng vậy

Vô số các phân biệt

Từ bên trong chấp thủ

Như đất không phân biệt

Vạn vật nhờ đó sinh

Tạng thức cũng như vậy

Chỗ nương của các cảnh

Như người dùng tay mình

Trở lại giữ lấy thân

Cũng như voi dùng vòi

Lấy nước thấm gội mình

Lại như những đứa trẻ

Đưa tay vào miệng ngậm

Như vậy trong tâm mình

Hiện cảnh lại tự duyên

Cảnh giới của tâm này

Hiện khắp cả ba cõi

Người tu quán hạnh lâu

Mới khéo thông đạt được

Các thế gian trong ngoài

Tất cả chỉ tâm hiện.

Lúc ấy, Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng nói lời này rồi, im lặng ngồi xuống, an trụ vào thiền định vi diệu, ở cửa pháp giới nhập vào cảnh giới của Chư Phật, thấy có vô lượng Chư Thiên sắp đến cõi này để an trú tu tập, liền từ chỗ ngồi đứng dậy phóng ra ánh sáng lớn.

Ánh sáng ấy chiếu đến Cõi Dục, Cõi Sắc, Vô Sắc, Vô Tưởng, Thiên Cung, từ trong ánh sáng này lại hiện ra vô lượng Cõi Phật thù thắng, có vô lượng Đức Phật tướng tốt đẹp trang nghiêm, tùy theo sự mong muốn của các thế gian mà làm việc lợi ích, đều khiến cho thọ trì danh hiệu mật nghiêm.

Các vị Bồ Tát ấy cùng nhau quán sát và bảo rằng: Cõi mật nghiêm của Phật có thể làm thanh tịnh các phước đức, diệt trừ tất cả tội, những người tu pháp quán hành trong cõi ấy thì các Cõi Phật tối thượng khác không thể sánh bằng. Chúng ta nghe danh hiệu cõi nước này trong tâm vui mừng, hãy cùng nhau đi đến đó.

Bấy giờ, Chư Thiên từ chỗ ở của mình đi đến cõi này.

Chư Thiên Cõi Tịnh Cư, Sắc Cứu Cánh và Phạm Thiên Vương cùng tụ hội, đối với Phật và các Bồ Tát ở cõi này đều sinh ý nghĩ mong cầu hiếm có nên thưa Phạm Vương: Thưa Thiên Chủ!

Chúng tôi cùng có ý niệm: Lúc nào được theo Thiên Chủ đi đến cõi mật nghiêm.

Phạm vương nghe lời này rồi, cùng với Chư Thiên vội vàng đi.

Giữa đường, đi chậm lại vì không biết chỗ đến, Phạm Vương liền suy nghĩ: Cõi mật nghiêm của Phật là cảnh giới để tu pháp quán hành, chẳng phải người nào cũng có thể đến đó được, chẳng phải là chỗ đến của Chư Thiên ở Cõi Dục, Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc và các ngoại đạo có thần thông.

Nay, chúng ta làm sao đến?

Lại nghĩ rằng: Giả sử ta có được oai lực của Phật hộ trì thì đến đó. Nghĩ rồi nói lời đảnh lễ, ngay lúc đó, Phạm Thiên thấy có vô lượng Chư Phật ở giữa hào quang uy nghiêm chiếu sáng.

Phạm Vương bạch: Bạch Thế Tôn! Chúng con làm sao có thể đi đến Cõi Phật mật nghiêm?

Đức Phật bảo: Ông nên trở lui.

Vì sao?

Vì Cõi Phật mật nghiêm là cảnh giới quán hành, là chỗ an trụ của bậc đắc chánh định, các Cõi Phật khác tối thắng cũng không thể sánh bằng: Chẳng phải là chỗ đến của người có hình sắc.

Phạm thiên vương nghe Phật bảo rồi, liền cùng với Chư Thiên trở về Thiên Cung.

Bấy giờ Chư Thiên Cõi Tịnh Cư cùng suy nghĩ: Phạm Thiên Vương có oai lực lớn mà không thể đến được, nên biết cõi ấy rất là thù thắng, đó là cảnh giới của những bậc tu pháp quán hành chứng đắc tam muội như huyễn. Họ tán thán công đức của cõi mật nghiêm như vậy, âm thanh ấy liên tục truyền đi, khắp nơi cùng nghe.

Các Bồ Tát trong hội nghe lời này rồi càng thêm vui mừng cung kính, bạch Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng: Chúng tôi hằng khát ngưỡng mến mộ pháp thâm sâu vi diệu, xin bậc đại trí giảng nói cho chúng tôi.

Bồ Tát Kim Cang Tạng đáp: Pháp của Đức Phật thuyết không ai có thể diễn thuyết đầy đủ, chỉ trừ được sự hộ niệm của Như Lai, vì Như Lai là bậc giải thoát tối thắng đối với pháp quán hành, có cảnh giới không thể nghĩ bàn, làm thế nào đối với người không tu pháp quán hành mà khai thị giảng thuyết được.

Lúc ấy, Bồ Tát Trì Tấn, Tu Dạ Ma và các Bồ Tát liền đồng thanh thỉnh.

Bồ Tát Thần Thông Vương, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ Tát Từ Thị, Bồ Tát Khẩn Na La và vô lượng các Bồ Tát khác lại thưa: Lành thay! Nhân Giả! Hãy mau thuyết giảng, lại có vô lượng Chư Thiên trổi nhạc Trời giữa hư không đồng tâm khuyến thỉnh.

***