Kinh Nguyên thủy
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Mật Nghiêm - Phẩm Hai - Phẩm Diệu Thân Sinh
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA MẬT NGHIÊM
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Địa Bà Ha La, Đời Đường
PHẨM HAI
PHẨM DIỆU THÂN SINH
TẬP MỘT
Bấy giờ, Bồ Tát Như Thật Kiến có oai lực lớn, tự tại trong thế gian, trên thân Bồ Tát pháp phục tốt đẹp trang nghiêm, đứng cách xa chỗ Phật, cúi mình chắp tay, nhất tâm, cung kính hướng đến Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng.
Thưa: Tôn Giả khéo thông đạt được trí cảnh hiện pháp lạc trú, đối với ba thừa thế gian tâm không còn chống trái, là bậc thầy đại định, nơi định tự tại có thể tùy thuận thuyết giảng tướng các cõi.
Thường ở trong tất cả các cõi nước Phật vì các bậc thượng thủ diễn giải pháp vi diệu thâm sâu, cho nên nay tôi xin thỉnh Tôn Giả thuyết về cảnh chứng đắc bên trong hiện pháp lạc trú của các Thánh Nhân không theo hạnh người khác.
Khiến cho tôi và các Bồ Tát khác được thấy pháp đó, an lạc tu hành ở trong Cõi Phật được ý sinh thân và ngôn thuyết thân, sức thần thông tự tại đều được đầy đủ, chuyển sinh y của mình mà không dừng lại nơi quả vị chứng đắc, như các tia sáng của ngọc ma ni hiện lên các hình sắc, nơi tất cả nước Phật thuyết hạnh mật nghiêm.
Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng bảo: Lành thay! Nhân Giả! Có thể thỉnh ta thuyết pháp vô ngã để vào cõi mật nghiêm.
Nhân Giả! Trước nên hiểu rõ các cảnh phân biệt là tướng của tâm, ở trong cảnh giới ấy, xả bỏ những sự phân biệt. Nhân chủ, thấy tất cả thế gian là phân biệt, thấy thể của thế gian tức ở nơi duyên mà được tam muội.
Nay tôi vì ông khai thị pháp đó. Nhân chủ nên lắng nghe.
Bồ Tát nói kệ:
Tất cả các thế gian
Hư ảo như sóng nắng
Do các tướng không thật
Không mà lầm phân biệt.
Biết do đối tượng sinh
Đối tượng hiện do biết
Lìa một tức không hai
Như ánh sáng cùng ảnh.
Vô tâm cũng vô cảnh
Lượng và đối tượng lượng
Chỉ nương vào một tâm
Như vậy mà phân biệt.
Pháp biết và sự biết
Chỉ theo tâm vọng chấp
Nếu rõ sự biết không
Thì biết tức chẳng có.
Tâm là tự tánh pháp
Thân là chỗ cấu uế
Nhập vào địa thứ tám
Từ đó được thanh tịnh.
Thiền định địa thứ chín
Địa thứ mười giác ngộ
Nước pháp rưới vào đảnh
Thành tối thượng trong đời.
Pháp thân không có tận
Đây là cảnh giới Phật
Rốt ráo như hư không
Tâm thức cũng như vậy.
Không tận cũng không hoại
Dùng các đức trang nghiêm
Thường trụ chẳng nghĩ bàn
Các Cõi Phật mật nghiêm.
Ví như bình đã vỡ
Nhờ đó đất hiện rõ
Đất vỡ hiện ra bụi
Bụi phân ra cực vi.
Như vậy từ hữu lậu
Mà thành pháp vô lậu
Như lửa cháy hết củi
Lửa lại cháy chỗ khác.
Chuyển y lìa phân biệt
Chứng được trí bất động
Trong nước Phật mật nghiêm
Như vậy mà thường hiện.
Không phẩm loại chúng sinh
Chớ trụ ở thế gian
Bỏ tất cả kiến chấp
Trở về với vô ngã.
Đoạn các tướng lưu chuyển
Không sinh cũng không diệt
Dứt hết các kiến chấp
Chứng được pháp vô ngã.
Các hoạn nạn đã hết
Tịnh trú không nghĩ bàn
Diệt hết các kiến chấp
Trở về với vô ngã.
Hết thảy pháp thế gian
Xưa nay tánh vô ngã
Chẳng do hoại thành không
Do ví dụ mới rõ.
Như lửa cháy củi hết
Tự ở trong đó diệt
Quán sát nơi ba cõi
Trí vô ngã cũng vậy.
Gọi là hiện pháp lạc
Cảnh trí của Thánh Nhân
Nương đây vào các Địa
Diệt hết tôi từ xưa.
Vượt lên khỏi thế gian
An trụ đạo xuất thế
Chuyển tâm thành thanh tịnh
Thường ở cõi mật nghiêm.
Bấy giờ, Bồ Tát Như Thật Kiến và các đại chúng đều thưa: Bồ Tát Kim Cang Tự Tại, chúng tôi đều muốn được quy y, nguyện xin chỉ bày pháp ấy.
Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng nói kệ:
Tánh Phật chẳng phải có
Chẳng phải không có Phật
Cây uẩn đã thiêu đốt
Quân ma đều thoái lui
Trú nơi cõi Như Lai
Nước vi diệu mật nghiêm
Thấy rõ tịnh không cấu
Nhân chủ muốn quy y
Lìa xa các phân biệt
Chứng nơi không xứ sở
Chỗ các định mật nghiêm
Nhân chủ muốn quy y
Cõi mật nghiêm tối thắng
Chỗ nương các Bậc Thánh
Hành giả quán đầy đủ
Trở về cõi mật nghiêm.
Lúc ấy, Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng lại bảo Bồ Tát Như Thật Kiến: Nhân chủ! Muốn quán các trụ địa, những người tu pháp quán hành quán tất cả thế gian như trong tượng vẽ có cao, thấp. Như mộng thấy nữ sắc đoan trang.
Như người nữ đá bỗng mộng thấy mình sinh con. Như những sinh hoạt trong thành Càn Thát Bà. Như vòng lửa thành bánh xe. Như tóc treo rũ giữa không trung. Như người ảo thuật tạo ra hình ngựa, rừng cây, hoa quả. Như bóng mây nổi. Như ánh điện chớp đều là giả chẳng phải thật có, do sự phân biệt tạo thành giống như người thợ tạo ra đồ dùng.
Nhân chủ! Tập khí chúng sinh ở thế gian che mờ tâm tánh sinh ra các loại hý luận, ý cùng ý thức và các thức khác khiến cho năm pháp, ba tánh chuyển biến liên tục cùng tương ưng với hai thứ vô ngã. Ví như dòng nước do gió thổi mà tạo nên các làn sóng, sóng khởi liên tục mà dòng nước chảy không ngừng. Thức A lại da ở trong thế gian cũng vậy. Tập khí vô thủy giống như dòng nước bị gió cảnh giới khuấy động, sinh ra những làn sóng thức liên tục không dứt.
Nhân chủ! Tâm này tuy thể tánh khác nhau mà thường duyên theo nhau dần dần sinh khởi, hoặc sinh khởi một lúc, khi tâm sinh chấp lấy các cảnh giới cũng có sự nhanh chậm khác nhau như vậy.
Như nhà cửa, các ngôi sao, chỗ quân trận, núi rừng, cây, nhánh lá, hoa quả những chỗ như vậy cùng một lúc chấp lấy nhiều thứ hoặc lần lượt từng thứ, nếu ở trong mộng thấy lại chuyện đã qua, hoặc nhớ lại thuở mới sinh ra đến lúc già chết và tính toán các vật, suy nghĩ các câu nghĩa, thấy các màu sắc đẹp lạ, cảm nhận ăn uống ngon, đối với cảnh giới này lần lượt biết rõ. Hoặc có lúc chỉ một lúc biết rõ tất cả.
Nhân chủ! Tâm tánh vốn thanh tịnh không thể nghĩ bàn. Các tạng Như Lai vi diệu như vàng trong quặng, ý từ tâm sinh, sáu thức khác cũng vậy. Như thế nhiều pháp ở trong thế gian tạo ra sự khác nhau.
Nhân chủ! Thức A lại da tuy có thể hòa hợp cùng các tâm pháp cho đến tất cả chủng tử nhiễm ô, thanh tịnh cùng dừng lại trụ nơi tánh thường sáng suốt.
Nên biết chủng tánh của Như Lai cũng vậy, dù phân biệt định hay bất định, thể tánh cũng thường thanh tịnh, nhu biển luôn yên lặng mà sóng thường chuyển động, lần lượt tu tập từng bước hạ, trung, thượng riêng biệt. Xả bỏ các tạp nhiễm thì được sáng suốt.
Đại Bồ Tát Kim Cang Tạng lại nói kệ:
Lành thay! Tuệ Như Thật!
Chánh pháp vi diệu này
Từ lúc ta vừa nghe
Tâm định đã khai ngộ.
Tất cả nước mười phương
Các đại chúng trong hội
Ông nên tùy thuận theo
Vì họ tuyên thuyết rộng.
Nếu người nghe thuyết rồi
A lại da thanh tịnh
Hoặc là được làm Vua
Chuyển luân bốn thiên hạ.
Hiện làm Trời Đế Thích
Đâu Suất, Tu Dạ Ma
Hoặc chủ Trời Cõi Dục
Đến cung Trời Tự Tại,
Hoặc làm chủ Cõi Sắc
Sinh vào Trời Vô Sắc
Sinh trong Cõi Vô Tưởng
Hưởng hỷ lạc Thiền định,
Chứng chân thật không trụ
Ví như Sư Tử hống
Tự tại trong các định
Nhờ tương ưng hỷ lạc
Nhất tâm cầu mật nghiêm
Không đắm nhiễm ba cõi
Đến cõi mật nghiêm rồi
Lần lượt mà khai ngộ
Chuyển y được an lạc
Thường an trú tịch tĩnh
Có vô lượng Phật Tử
Vây quanh để trang nghiêm
Bậc pháp vương tự tại
Tối thượng ở trong chúng
Chẳng như ngoại đạo thuyết
Hoại diệt là Niết Bàn
Hoại nên đồng với có
Có chết lại sinh ra
Mười nghiệp thượng, trung, hạ
Vượt ra khỏi ba thừa
Sinh mật nghiêm tối thượng
Siêng năng chuyển các địa
Được trí tuệ giải thoát
Thân Như Lai vi diệu
Vì sao nói Niết Bàn
Đó là pháp hoại diệt
Nếu Niết Bàn hoại diệt
Chúng sinh có tận cùng
Chúng sinh nếu có cùng
Cũng có điểm khởi đầu
Nên pháp chẳng có sinh
Từ đầu làm chúng sinh
Chẳng không có chúng sinh
Mà sinh cõi chúng sinh
Cõi chúng sinh đã tận
Phật không đốt đuốc pháp
Thì không thể giác ngộ
Cũng không có Niết Bàn
Người vọng chấp giải thoát
Như hạt giống đã cháy
Đèn tắt và lửa hết
Nói tánh giải thoát đó
Là có hoại không thành
Xa lìa không thể chứng
Nơi giải thoát diệu lạc
Biến xứ và các thiền
Vô Sắc vô tưởng định
Sức thần thông tự tại
Nghịch thuận mà ra vào
Ở đó không thoái lui
Thường không bị chìm đắm
Biết rõ các pháp tướng
Khéo đạt được các cõi
Như vậy mà trang nghiêm
Đến trụ nước mật nghiêm
Nếu nói tánh giải thoát
Có hoại nhưng không thành
Người này trụ các cõi
Mãi mãi không thể ra
Phá hoại ba hòa hợp
Nhân nơi bốn thứ duyên.
***