Kinh Nguyên thủy
Phật Thuyết Kinh đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương
PHẬT THUYẾT KINH
ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thiên Tức Tai, Đời Tống
PHẦN MƯỜI
Tam Ma Địa Kim Cương Giáp Trụ Vajrakavaca, Tam Ma Địa Diệu Túc Bình Mãn Supratiṣṭhi caraṇa, Tam Ma Địa Nhập Chư Phương Tiện Sarvopāya kauśalya praveśana, Tam Ma Địa Quán Trang Nghiêm Dhyānālaṃkara, Tam Ma Địa Pháp Xa Thanh Dharma rathābhirūḍha.
Tam Ma Địa Viễn Ly tham sân si Rāga dveṣa moha parimokṣaṇa, Tam Ma Địa Vô Biên Tế Ananta vasta, Tam Ma Địa Lục Ba La Mật Môn Ṣaṭ pāramitānirdeśa, Tam Ma Địa Trì Đại Diệu Cao Mahā meru dhara, Tam Ma Địa Cứu Chư Bố Úy Sarva bhavottāraṇa, Tam Ma Địa Hiện Chư Phật Sát Sarva buddha kṣetrasaṃdarśana… được một trăm lẻ tám Tam Ma Địa của nhóm như vậy.
Lúc đó, Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch Phật rằng: Thế Tôn! Nay con ở nơi nào khiến cho con được Lục Tự Đại Minh Đà La Ni đó. Nguyện xin vì con mà tuyên bày.
Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ở Đại Thành Ba La Nại Vārāṇa có một vị Pháp Sư Dharma bhāṇaka thường tác ý thọ trì khóa tụng Lục Tự Đại Minh Đà La Ni.
Bạch Đức Thế Tôn! Nay con muốn đến Đại Thành Ba La Nại gặp vị Pháp Sư ấy để lễ bái cúng dường.
Đức Phật nói: Lành thay! Lành thay Thiện nam tử! Vị Pháp Sư ấy rất khó được gặp gỡ, hay thọ trì Lục Tự Đại Minh Đà La Ni đó.
Thấy vị Pháp Sư ấy đồng với thấy Đức Như Lai không có khác, như thấy Thánh Địa công đức, như thấy nơi nhóm tụ phước đức Pūṇya kūṭa, như thấy nơi cất chứa trân bảo Ratna rāśiriva, như thấy ban cho viên ngọc Ma Ni Như Ý Cintāmaṇi, như thấy Pháp Tạng Dharmarāja: Pháp Vương, như thấy Đấng Cứu Thế Jagaduttāraṇa.
Thiện nam tử! Nếu ông nhìn thấy vị Pháp Sư đó thời chẳng được sinh tâm khinh mạn nghi ngờ.
Thiện nam tử! Sợ ông bị lùi mất địa vị Bồ Tát của ông, ngược lại sẽ chịu trầm luân! Vì giới hạnh của vị Pháp Sư ấy có khuyết phạm, lại có vợ con, đại tiểu tiện dính dơ áo Ca sa Kāṣā, không có uy nghi.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch với Đức Thế Tôn rằng: Như lời Đức Phật dạy dỗ răn bảo.
Khi ấy, Trừ Cái Chướng Bồ Tát với vô số Chúng Bồ Tát xuất gia, Trưởng Giả, Đồng Tử, Đồng Nữ, ủng hộ tùy tùng, muốn hưng khởi cúng dường, cầm lọng của Cõi Trời với các vật cúng, mão báu, vòng đeo tai, Anh Lạc trang nghiêm, nhẫn đeo ngón tay, quần áo lễ Kiêu Thi Ca Kauśila vastra, lụa là, vật dụng nằm nghỉ…
Lại có mọi loại hoa màu nhiệm, ấy là: Hoa Ưu Bát La Utpala, hoa Củ Mẫu Na Kumuda, hoa Bôn Noa Lý Ca Puṇḍarika, hoa Mạn Na La Māndāra, hoa Ma hoa Ma Ha Mạn Na La Mahā māndāra, hoa Mạn Thù Sa Mañjuṣaka, hoa Ma Ha Mạn Thù Sa Mahā mañjuṣaka, hoa Ưu Đàm Bát La Udumbarā.
Lại có hoa của mọi loại cây như: Hoa Chiêm Ba Ca Caṃpaka, hoa Ca La Vĩ La Karavīra, hoa Ba Tra La Pāṭalā, hoa A Để Mục Cật Đa Ca Ati muktaka, hoa Phộc Lật Sử Ca Thiết Vārṣikāniśa, hoa Quân Đá Kuna, hoa Tô Ma Na Sumana, hoa Ma Lý Ca Mālika. Còn có chim Uyên Ương, Bạch Hạc, Xá Lợi Śāli… bay nhảy theo sau.
Lại có trăm loại lá cây có màu xanh Nīla, vàng Pīta, đỏ Lohita, trắng Avadata, hồng Māñjiṣṭha, Pha Chi Ca Sphaṭika. Lại có mọi loại quả trái ngon lạ.
Cầm vật cúng dường của nhóm như vậy đi qua Đại Thành Ba La Nại, đến chỗ ở của vị Pháp Sư. Đến nơi xong, cúi đầu mặt đỉnh lễ bàn chân của vị ấy. Tuy nhìn thấy vị Pháp Sư bị khuyết phạm giới hạnh, không có uy nghi nhưng vẫn đem tàn lọng, vật cúng, hương hoa, quần áo, vật trang nghiêm … làm đại lễ cúng dường.
Xong rồi chắp tay đứng trước mặt vị Pháp Sư, nói rằng: Đại Pháp Tạng là kho tàng của vị Cam Lộ, là biển pháp thâm sâu giống như hư không. Tất cả mọi người lắng nghe Ngài nói pháp. Trời, Rồng, Dược Xoa, Ngạn Đạt Phộc, A Tô La, Nga Lỗ Noa, Ma Hộ La Nghiệt, Người, Phi Nhân…vào lúc Ngài nói pháp thời đều đến lắng nghe Ngài nói pháp.
Như Đại Kim Cương khiến cho hữu tình giải thoát báo của luân hồi ràng buộc, hữu tình của nhóm ấy được phước đức. Người cư trú trong Đại Thành Ba La Nại này, thường thấy Ngài cho nên các tội đều được diệt giống như lửa thiêu đốt cây rừng. Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết rõ nơi Ngài.
Nay có vô số trăm ngàn vạn câu chi na dữu đa Bồ Tát đi đến chỗ của Ngài, vui thích phụng sự cúng dường. Đại Phạm Thiên Vương Brahmā, Na La Diên Thiên Viṣṇu, Đại Tự Tại Thiên Maheśvara, Nhật Thiên Āditya, Nguyệt Thiên Candra, Phong Thiên Vāyu, Thủy Thiên Varuṇa, Hỏa Thiên Agni, Diêm Ma Pháp Vương Yamaśca Dharma rāja và bốn vị Đại Thiên Vương Catvāra mahārāja đều đến cúng dường.
Lúc đó, vị Pháp Sư bạch rằng: Thiện nam tử! Ông đùa giỡn ư?
Thật có mong cầu bậc Thánh vì chốn Thế Gian đoạn trừ phiền não Luân Hồi chăng?
Thiện nam tử! Nếu có người được Lục Tự Đại Minh Vương Đà La Ni này thì người đó chẳng thể bị ba Độc Tham Rāga, Sân Dveṣa, Si Moha làm nhiễm ô giống như vật báu Tử Ma Jāmbūna, Vàng Suvarṇa chẳng bị nhiễm dính bụi dơ.
Như vậy Thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Đà La Ni này. Nếu có người đeo giữ ngay trong thân thì người đó cũng chẳng bị nhiễm dính bệnh tham, sân, si.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát nắm chân vị Pháp Sư ấy rồi bạch rằng: Mắt chưa đủ sáng, mê mờ đánh mất đạo nhiệm màu, ai là người dẫn đường?
Nay tôi khao khát pháp, nguyện giúp cho pháp vị. Nay tôi chưa được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề, khiến cho khéo an trụ mầm giống của pháp Bồ Đề, sắc thân thanh tịnh, mọi điều lành Kuśalānāṃ chẳng hoại, khiến các hữu tình đều được Pháp ấy.
Mọi người nói rằng: Đừng nên keo kiệt. Nguyện xin Pháp Sư trao cho tôi Pháp Lục Tự Đại Minh Vương khiến cho chúng tôi mau được A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, sẽ chuyển mười hai Pháp Luân Dharma cakra cứu độ khổ não luân hồi của tất cả hữu tình. Pháp Đại Minh Vương này xưa kia chưa từng nghe, nay khiến cho tôi được Lục Tự Đại Minh Vương Đà La Ni.
Xin làm nơi nương cậy cho kẻ không có ai cứu, không có chỗ dựa!
Xin làm ngọn đuốc sáng trong đêm tăm tối!
Thời vị Pháp Sư ấy bảo rằng: Lục Tự Đại Minh Vương Đà La Ni này khó được gặp gỡ!
Như Kim Cương kia chẳng thể phá hoại, như thấy trí vô thượng anuttāra jñāna, như trí vô tận akṣa jñāna, như trí thanh tịnh của Như Lai Tathāgata jñāna viśuddhi, như vào giải thoát vô thượng, xa lìa tham sân si luân hồi khổ não, như thiền giải thoát dhyāna vimokṣa, Tam ma địa Samādhi, Tam ma bát để Samāpūrti, như vào tất cả Pháp, ở nơi mà Thánh Chúng thường yêu thích.
Nếu có kẻ trai lành ở mọi nơi, vì cầu giải thoát, tuân phụng mọi loại pháp của ngoại đạo như: Thờ kính Đế Thích Indra, hoặc thờ Bạch Y Śveta, hoặc thờ Thanh Y Dhyuṣita, hoặc thờ Nhật Thiên Āditya, hoặc thờ Đại Tự Tại Thiên Maheśvara, Na La Diên Thiên Nārāyaṇa, Nghiệt Lỗ Noa Garuḍa, hoặc trong ngoại đạo lõa thể Nagna śramaṇa yêu thích nơi như vậy. Nhóm ấy không giải thoát được hư vọng vô minh, được chuyện hão mà gọi là tu hành, chỉ tự lao nhọc mệt mỏi mà thôi!
Tất cả Thiên Chúng, Đại Phạm Thiên Vương, Đế Thích Thiên Chủ, Na La Diên Thiên, Đại Tự Tại Thiên, Nhật Thiên, Nguyệt Thiên, Phong Thiên, Thủy Thiên, Hỏa Thiên, Diêm Ma Pháp Vương, bốn vị Đại Thiên Vương… luôn ở mọi thời làm sao cầu được Lục Tự Đại Minh Vương của Ta. Nhóm ấy được Lục Tự Đại Minh Vương của ta đều được giải thoát.
Trừ Cái Chướng! Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa của tất cả Như Lai tuyên nói Lục Tự Đại Minh Vương như thế. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với chúng Bồ Tát, thảy đều cung kính chắp tay làm lễ.
Thiện nam tử! Pháp này là Tối Thượng Tinh Thuần Vi Diệu ở trong Đại Thừa.
Tại sao thế?
Vì đối với các Khế Kinh của Đại Thừa Mahā yāna Sūtraṃ: Ứng Tụng geya, Thọ Ký Vyākaraṇa, Phúng Tụng Gāthā, Thí Dụ Avadana, Bản Sinh Jāṭaka, Phương Quảng Vaipulya, Hy Pháp Adbhuta dharma, Luận Nghị Upadeśa… đắc được trong đó.
Thiện nam tử! Người được sự giải thoát Mokṣa vắng lặng Śivaṃ của Bản Mẫu này thì mượn nhiều làm chi?
Giống như thu nhặt lúa nếp vào nhà mình chứa đầy tràn trong vật khí, mỗi ngày đem phơi thì phải khô. Giã sàng gió thổi thì vứt bỏ vỏ trấu ấy. Vì sao thế vì cần thu nhặt gạo trắng. Như vậy các Du Già Yoga khác cũng như vỏ trấu ấy. Ở trong tất cả Du Già thì Lục Tự Đại Minh Vương này như bỏ trấu thấy gạo.
Thiện nam tử! Bồ Tát vì pháp này cho nên hành thí Ba la mật đa Dānapāramitā với trì giới Śīla pāramitā, nhẫn nhục Kṣānti pāramitā, tinh tiến Vīrya pāramitā, thiền định Dhyāna pāramitā, trí tuệ Ba la mật đa Prajñapāramitā.
Thiện nam tử! Lục Tự Đại Minh Vương này khó được gặp gỡ, chỉ niệm một biến thì người đó sẽ được tất cả Như Lai đem quần áo, thức ăn uống, thuốc thang, vật dụng để nằm ngồi… tất cả vật dụng cần thiết để cúng dường.
Bấy giờ Trừ Cái Chướng Bồ Tát bạch với Pháp Sư rằng: Hãy trao cho tôi Lục Tự Đại Minh Đà La Ni. Thời vị Pháp Sư ấy chính niệm suy nghĩ.
Đột nhiên ở hư không có tiếng nói rằng: Thánh Giả hãy trao cho Lục Tự Đại Minh Vương đó.
Lúc đó, vị Pháp Sư ấy suy nghĩ: Tiếng nói đó từ đâu phát ra?
Ở trong hư không lại phát ra tiếng nói rằng: Thánh Giả! Nay Bồ Tát này gia hành chí cầu điều cao xa khó thấy, nên trao cho Lục Tự Đại Minh Vương đó vậy.
Thời vị Pháp Sư ấy quán thấy trong hư không có Liên Hoa Thủ Liên Hoa Cát Tường Padma hasta padma śrī như màu trăng mùa Thu với búi tóc, mão báu, đỉnh đầu đội nhất thiết trí thù diệu trang nghiêm.
Nhìn thấy thân tướng như vậy, vị Pháp Sư bảo Trừ Cái Chướng rằng: Thiện nam tử! Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát hay khiến trao cho ông Lục Tự Đại Minh Vương Đà La Ni. Ông nên lắng nghe.
Thời vị ấy chắp tay cung kính lắng nghe Lục Tự Đại Minh Vương Đà La Ni đó là:
Án, ma ni bát nột minh hồng.
OṂ MAṆI PADME HŪṂ.
Khi trao cho Đà La Ni ấy thời cõi đất thảy đều chấn động theo sáu cách. Trừ Cái Chướng Bồ Tát đắc được Tam Ma Địa Samādhi này, lại được Tam Ma Địa Vi Diệu Tuệ Sūkṣma jana, Tam Ma Địa Phát Khởi Từ Tâm Maitrī kāruṇa mudita, Tam Ma Địa Tương Ứng Hạnh Yogācāra.
Được Tam Ma Địa đó xong. Thời Trừ Cái Chướng Bồ Tát Ma Ha Tát đem bảy báu chất đầy trong bốn Châu lớn, phụng hiến cúng dương vị Pháp Sư.
Khi ấy vị Pháp Sư bảo rằng: Nay sự cúng dường chưa xứng đáng với một chữ thì làm sao cúng dường đủ Đại Minh có sáu chữ?
Ta chẳng nhận vật cúng của ông.
Này Thiện nam tử! Ông là Bồ Tát Thánh Giả Ārya hay chẳng phải Thánh Giả Nārya?
Trừ Cái Chướng ấy lại đem chuỗi Anh Lạc trị giá bằng trăm ngàn hạt Chân Châu cúng dường Pháp Sư.
Thời vị Pháp Sư ấy nói: Thiện nam tử! Hãy lắng nghe tôi nói, ông nên đem vật này đến cúng dường Đức Thích Ca Mâu Ni śākya muṇi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.
Khi ấy Trừ Cái Chướng Bồ Tát cúi đầu mặt lễ bàn chân của vị Pháp Sư xong. Ý mong cầu đã được đầy đủ nên từ giã vị Pháp Sư ấy. Lại đi đến vườn rừng Kỳ Đà Jeṭa vaṇa, đến nơi xong đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật.
Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bảo rằng: Thiện nam tử! Biết ông đã có sở đắc.
Đúng như vậy! Bạch Đức Thế Tôn!
Ngay lúc đó có bảy mươi mươi bảy câu chi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều đến tập hội.
Các Đức Như Lai ấy đồng nói Đà La Ni Dhāraṇī là:
Nẵng mạc táp bát đá nam tam miểu cật tam một đà cú trí nam Đát nễ dã tha Án tả lệ tổ lệ tôn nỉ sa phộc hạ.
NAMO SAPTĀNĀṂ SAMYAKSAṂBUDDHA KOṬINĀṂ TADYATHĀ: OṂ CALE CULE CUṄDHE SVĀHĀ.
Khi bảy mươi bảy câu chi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói Đà La Ni này thời trên thân của Quán Tự Tại Bồ Tát có một lỗ chân lông Romavivara tên là Nhật Quang Minh Sūrya prabha, trong đó có vô số trăm ngàn vạn câu chi na dữu đa Bồ Tát.
Trong lỗ chân lông Nhật Quang Minh ấy có một vạn hai ngàn ngọn núi bằng vàng ròng Kim Sơn. Mỗi một ngọn núi ấy đều có một ngàn hai trăm đỉnh núi, vòng quanh núi ấy có báu màu hoa sen dùng để trang nghiêm. Rồi ở chung quanh có báu Ma Ni của Cõi Trời, vườn rừng thích ý.
Lại có mọi loại ao của Cõi Trời, lại có vô số trăm ngàn vạn lầu gác được trang nghiêm bằng vật báu vàng ròng. Bên trên treo trăm ngàn quần áo, Chân Châu, Anh Lạc. Trong lầu gác ấy có viên ngọc báu Như Ý Cintāmaṇi ratna tên là Vi Diệu Sārada cung cấp tất cả vật dụng cần thiết cho các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đó.
Thời các Bồ Tát vào trong lầu gác mà niệm Lục Tự Đại Minh, lúc ấy thấy được Địa Niết Bàn Nirvāṇa bhūmi. Đến Địa của Niết Bàn rồi, nhìn thấy Đức Như Lai, quán thấy Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát thời sinh tâm vui vẻ.
Khi ấy Bồ Tát ra khỏi lầu gác rồi đều đến chỗ kinh hành. Ở trong đó có các vườn báu, rồi lại đi đến ao tắm, lại đến núi báu màu hoa sen, ngồi Kiết Già ở tại một bên mà nhập vào tam muội.
Như vậy Thiện nam tử! Bồ Tát an trụ trong lỗ chân lông ấy.
Thiện nam tử! Lại có lỗ chân lông, tên là Đế Thích Vương Indra rāja. Trong đó có vô số trăm ngàn vạn câu chi na dữu đa Bất Thoái Chuyển Bồ Tát Vaivartikabodhisattva.
Ở trong lỗ chân lông Đế Thích Vương ấy lại có tám ngàn vạn ngọn núi báu bằng vàng ròng. Trong núi ấy có báu Ma Ni Như Ý tên là Liên Hoa Quang Padmāvabhāṣa tùy theo sự suy nghĩ trong tâm của Bồ Tát ấy đều được thành tựu. Thời Bồ Tát ở trong núi ấy, nếu nghĩ đến việc ăn uống thì không có gì không đầy đủ, không có nỗi khổ của phiền não luân hồi, luôn luôn suy nghĩ thì thân ấy không có suy tư khác.
***